Bắc Kỳ
Bắc Kỳ (chữ Hán: 北圻) là địa danh do vua Minh Mạng ấn định vào năm 1834 trong cuộc cải cách hành chính để mô tả vùng đất từ tỉnh Ninh Bình trở ra Bắc của Đại Nam, thay cho địa danh Bắc Thành.[1][2] Hiện nay, cách gọi này đôi khi được một số người miền Nam dùng để phân biệt họ với những người di cư có quê quán từ miền Bắc Việt Nam, nhiều khi mang hàm ý kỳ thị vùng miền[3]. Tuy nhiên, lý do phân biệt này là thực ra là sai về mặt lịch sử, bởi tất cả người Kinh ở miền Nam Việt Nam (trừ người dân tộc thiểu số như người Khmer, người Hoa) vốn đều có tổ tiên là người Kinh ở miền Bắc Việt Nam, chỉ mới di cư vào Nam Bộ từ thời chúa Nguyễn (khoảng thế kỷ 17-18)[4].
Bắc Kỳ
|
|||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||||||||
1884–1945 1946–1948 | |||||||||||||||||||
Biểu trưng
Toàn quyền | |||||||||||||||||||
Địa giới hành chính Bắc Kỳ năm 1920 | |||||||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||||||
Vị thế | Xứ bảo hộ của thực dân Pháp (1883–1945) Lãnh thổ thuộc Liên bang Đông Dương (1887~1948) | ||||||||||||||||||
Thủ đô | Hà Nội | ||||||||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Pháp · Tiếng Việt | ||||||||||||||||||
Tôn giáo chính | Phật giáo · Nho giáo · Đạo giáo · Công giáo · Tín ngưỡng dân gian | ||||||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||||||
Thống sứ Bắc Kỳ | |||||||||||||||||||
• 1886–1887 | Jean Thomas Raoul Bonnal (đầu tiên) | ||||||||||||||||||
• 1944–1945 | Camille Auphell (cuối cùng) | ||||||||||||||||||
Lập pháp | Viện Dân biểu Bắc Kỳ | ||||||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||||||
Thời kỳ | Chủ nghĩa thực dân | ||||||||||||||||||
1884 | |||||||||||||||||||
• Hợp nhất vào Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam | 1948 | ||||||||||||||||||
Dân số | |||||||||||||||||||
• 1885 | 7.487.000 | ||||||||||||||||||
• 1939 | 11.509.000 | ||||||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Đồng bạc Đông Dương | ||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Việt Nam Trung Quốc |
Trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân Pháp duy trì tên gọi 3 xứ của Việt Nam có từ trước đó, nhưng áp dụng chế độ cai trị riêng biệt với mỗi xứ: xứ thuộc địa Nam Kỳ, xứ bảo hộ Trung Kỳ với một số quyền tượng trưng được trao cho nhà Nguyễn, và xứ bảo hộ Bắc Kỳ. Danh xưng Bắc Kỳ được duy trì cho đến năm 1945, sau đó được thay bằng tên gọi Bắc Bộ như hiện nay.
Địa danh Tonkin
"Tonkin" vốn là đọc trại âm tên Hán-Việt của địa danh Hà Nội, thời nhà Lê sơ gọi là Đông Kinh (東京). Vì đó cũng là trung tâm hành chính và thương mại miền Bắc nên Tonkin được người phương Tây dùng để chỉ toàn xứ Đàng Ngoài thời Trịnh - Nguyễn phân tranh dưới nhiều dạng như Tunquin, Tonquin, Tongking, Tongkin, và Tonkin. Cách viết phản ánh văn tự của người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp khi phát âm "Đông Kinh". Sang thế kỷ 19 địa danh "Tonkin" được người Pháp chỉ định riêng xứ Bắc Kỳ của triều Minh Mạng trở đi.[cần dẫn nguồn]
Tiền thân của Bắc Kỳ là tổng trấn Bắc Thành được thiết lập từ thời Gia Long nhà Nguyễn năm 1802, là cơ chế hành chính phân quyền đầu thời Nguyễn. Bắc Thành gồm 1 trấn thành là thành Thăng Long và 11 trấn là: 5 nội trấn (Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ) và 6 ngoại trấn (Quảng Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa)[5]
Thời Pháp thuộc
Trước khi triều đình Huế buộc phải ký Hòa ước Quý Mùi năm 1883, người Pháp đã thành lập Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ (corps expéditionnaire du Tonkin) để xâm lược Bắc Kỳ. Các tướng chỉ huy Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ đồng thời cũng là Thống soái Bắc Kỳ. Năm 1886, Paul Bert, một quan chức dân sự được cử sang với chức vụ "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (Résident supérieur du Tonkin), gọi tắt là Tổng sứ, thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ".
Năm 1887, chức vụ Toàn quyền Đông Dương được thành lập, nắm toàn quyền cai quản cả Bắc - Trung - Nam Kỳ. Năm 1889, chức vụ Tổng sứ bị bãi bỏ, chức vụ Thống sứ Bắc Kỳ (Résident général du Tonkin), còn được gọi là Tổng trú sứ, được đặt ra để đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều.
-
Nụ cười cô gái Bắc Kỳ, 1905
-
Bản đồ trung châu Bắc Kỳ năm 1873
-
Bản đồ Bắc Kỳ 1831-1885 trích từ Việt Nam toàn cảnh dư đồ (越南全境輿圖).
-
Bản đồ đông phần Bắc Kỳ năm 1883 và biên giới với Trung Hoa
-
Bản đồ Bắc Kỳ năm 1890 sau Công ước Pháp-Thanh 1887 nhưng trước Công ước Pháp-Thanh 1895
-
Bản đồ Bắc Kỳ (Tonkin) năm 1890 (tỷ lệː 1/500000)
-
Bản đồ Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp năm 1902
- ^ Hữu Ngọc "Wandering through Vietnamese Culture". Thé̂ giới publishers, 2004, reprinted April 2006 & 2008, 1 124 pp. ISBN 90-78239-01-8
- ^ Forbes, Andrew, and Henley, David: Vietnam Past and Present: The North (History and culture of Hanoi and Tonkin). Chiang Mai. Cognoscenti Books, 2012. ASIN: B006DCCM9Q.
- ^ Hoài Nhân (ngày 9 tháng 8 năm 2019). “Giết người vì bị nói 'Bắc kỳ con': Cha đột tử vì con, mẹ già nhận hai nỗi đau”. Thanh niên. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2021.
- ^ Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ (GS.TSKH Vũ Minh Giang)
- ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Các tỉnh nước Việt Nam ở đời Nguyễn, trang 207.