Cambyses II
Cambyses II (tiếng Ba Tư: کمبوجيه دوم, tiếng Ba Tư cổ: 𐎣𐎲𐎢𐎪𐎡𐎹 [1] Kɑmboujie,[2]) (mất năm 522 trước Công nguyên), con của Cyrus Đại đế (trị vì: 559–530 trước Công nguyên), là vua của các vua của Đế quốc Achaemenes. Ông nội của Cambyses là Cambyses I, vua xứ Anshan. Sau khi Cyrus Đại đế chinh phạt Cận Đông và Trung Á, Cambyses II tiếp tục bành trướng lãnh thổ của đế quốc vào Ai Cập trong thời hậu nguyên với chiến thắng trước pharaon Psamtik III của Ai Cập trong trận Pelusium vào năm 525 trước Công nguyên. Sau chiến dịch Ai Cập và thỏa hiệp với Libya, Cambyses xâm lược Vương quốc Kush (nằm ở Cộng hòa Sudan ngày nay) nhưng chỉ giành được thắng lợi nhỏ.[3]
Cambyses II | |
---|---|
Vua của các vua Iran | |
Cambyses II, khắc họa trong quyển Promptuarium Iconum Insigniorum | |
Tại vị | 530 – 523 trước Công nguyên (7 năm) |
Tiền nhiệm | Cyrus Đại đế |
Kế nhiệm | Darius Đại đế |
Thông tin chung | |
Sinh | Không rõ Không rõ |
Mất | Tháng 3 năm 522 trước Công nguyên Ecbatana |
An táng | Không chắc |
Hoàng tộc | Nhà Achaemenes |
Thân phụ | Cyrus Đại đế |
Thân mẫu | Cassandane của Ba Tư |
Đội quân biến mất
sửaVào năm 524 trước Công nguyên, vua Cambyses Đệ nhị đã gửi một đoàn quân gồm hơn 50.000 binh lính chống lại Ethiopia. Họ hành quân và san phẳng nhiều ốc đảo, nhưng rồi tất cả biến mất một cách bí ẩn mà không để lại dấu vết.
Vào tháng 11 năm 2009, hai nhà khoa học Angelo và Alfredo Castiglioni đã công bố phát hiện những tàn tích, công cụ và vũ khí của con người trong thời kỳ của quân đội Ba Tư.[4] Theo 2 nhà khoa học này thì đội quân thực chất đã bỏ mạng trên sa mạc vì gặp phải một cơn bão cát hung dữ.[5]
Theo kết quả của cuộc khai quật tại Ốc đảo Dakhla, vào năm 2015, Olaf E. Kaper thuộc Đại học Leiden lập luận rằng đội quân mất tích không bị bỏ mạng bởi một cơn bão cát, mà bị phục kích và đánh bại bởi pharaoh Ai Cập nổi loạn, Petubastis III. Petubastis sau đó đã bị đánh bại bởi người kế nhiệm của Cambyses, Darius I, người đã cố tình tạo nên câu chuyện về cơn bão cát để làm biến mất chiến thắng của kẻ thù Petubastis.[6][7][8]
Chú thích
sửa- ^ D. Akbarzadeh & A. Yahyanezhad (2006). The Behistun Inscriptions (Old Persian Texts) (bằng tiếng Ba Tư). Khaneye-Farhikhtagan-e Honarhaye Sonati. tr. 59. ISBN 964-ngày 5 tháng 5 năm 8499 Kiểm tra giá trị
|isbn=
: ký tự không hợp lệ (trợ giúp).Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) - ^ Kent, Ronald Grubb (1384 AP). Old Persian: Grammar, Text, Glossary (bằng tiếng Ba Tư). translated into Persian by S. Oryan. tr. 395. ISBN 964-421-045-X. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|year=
(trợ giúp) - ^ Herodotus. The History of Herodotus Volume I,Book II. tr. 246–250.
- ^ Lorenzi, Rossella (ngày 9 tháng 11 năm 2009). “Vanished Persian Army Said Found in Desert”. MSNBC. New York, NY: NBC Universal. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
- ^ Lorenzi, Rossella (ngày 9 tháng 11 năm 2009). “The Quest for Cambyses's Last Army”. Discovery Channel. Discovery Communications, LLC. Seeker. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
- ^ Kaper, Olaf E. (2015). “Petubastis IV in the Dakhla Oasis: New Evidence about an Early Rebellion against Persian Rule and Its Suppression in Political Memory”. Trong Silverman, Jason M.; Waerzeggers, Caroline (biên tập). Political memory in and after the Persian empire (PDF). Society of Biblical Literature. tr. 125–149. ISBN 978-0-88414-089-4.
- ^ “Leiden Egyptologist unravels ancient mystery”. Leiden University. ngày 19 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
- ^ Iacurci, Jenna (ngày 19 tháng 6 năm 2014). “Egyptologist Discovers What Really Happened to Missing 50,000-Strong Persian Army”. Nature World News. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.