Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giản Chi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Xiaoao (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
 
(Không hiển thị 29 phiên bản của 15 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
{{Thông tin nghệ sĩ}}
'''Nguyễn Hữu Văn''' ([[1904]] - [[22 tháng 10]] năm [[2005]]), thường được biết đến với bút danh '''Giản Chi''', là một học giả, một nhà văn, thầy giáo, nhà thơ và dịch giả của Việt Nam. Ông là bạn tâm giao của [[Nguyễn Hiến Lê]], một học giả nổi tiếng khác.
'''Nguyễn Hữu Văn''' ([[1904]] - [[22 tháng 10]] năm [[2005]]), thường được biết đến với bút danh '''Giản Chi''', là học giả, nhà văn, nhà giáo, [[nhà thơ]] là một dịch giả [[Việt Nam]]. Ông là bạn tâm giao của [[Nguyễn Hiến Lê]], một học giả nổi tiếng khác.


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
'''Giản Chi''' sinh năm [[Giáp Thìn]] (1904), quê ở làng Yên Quyết ([[làng Cót]]), phủ [[Hoài Đức]], tỉnh [[Hà Đông]] (nay thuộc [[quận Cầu Giấy]], [[Hà Nội]]). Ông theo Nho học từ nhỏ. Năm 14 tuổi đỗ khóa sinh, vào học trường Bưởi.

Giản Chi sinh năm Giáp Thìn (1904), quê ở làng Yên Quyết ([[làng Cót]]), phủ [[Hoài Đức]], tỉnh [[Hà Đông]] (nay thuộc [[quận Cầu Giấy]], [[Hà Nội]]). Ông theo Nho học từ nhỏ. Năm 14 tuổi đỗ khóa sinh, vào học trường Bưởi.


Tốt nghiệp Cao đẳng công chính Hà Nội, ông vào làm ngành bưu điện tại [[Lai Châu]], [[Sơn La]], tỉnh [[Hải Dương]]. Lúc này ông cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội.
Tốt nghiệp Cao đẳng công chính Hà Nội, ông vào làm ngành bưu điện tại [[Lai Châu]], [[Sơn La]], tỉnh [[Hải Dương]]. Lúc này ông cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội.


Khi [[Cách mạng Tháng Tám]] bùng nổ, ông đem ruộng đất cho cách mạng và ủng hộ tài vật cho kháng chiến. Sau đó ông đem gia đình tản cư lên miền thượng du, đến vùng Hoàng Lưu, sông Vàng, ngụ tại Thanh Oai.
Khi [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng Tháng Tám]] bùng nổ, ông đem ruộng đất cho cách mạng và ủng hộ tài vật cho kháng chiến. Sau đó ông đem gia đình tản cư lên miền thượng du, đến vùng Hoàng Lưu, sông Vàng, ngụ tại Thanh Oai.


Năm bốn mươi tuổi, ông có hai câu thơ nói về quãng đời phiêu bạt của mình:
Năm bốn mươi tuổi, ông có hai câu thơ nói về quãng đời phiêu bạt của mình:


:"Dòng đời khôn đổi làm sông rượu
:''Dòng đời khôn đổi làm sông [[rượu]]
:Bừng giấc quan hà lại muốn say"
:''Bừng giấc quan hà lại muốn say''


Ông có làm thơ đăng báo từ năm [[1940]], nhưng đến năm [[1994]] mới in thành tập "Tấc lòng". Ông từng nói: "Duyên làm thơ của tôi bắt nguồn từ cảnh đẹp trên đường Cổ Ngư hồi còn đi học (ở Hà Nội). Nó đeo đuổi tôi mãi đến lúc đầu đã bạc vẫn vương vấn mấy câu: Gió đông mơ dáng hoa đào - trà Phương Bối đậm nhớ Sao Trên Rừng".
Ông có làm thơ đăng báo từ năm [[1940]], nhưng đến năm [[1994]] mới in thành tập "Tấc lòng". Ông từng nói: "Duyên làm thơ của tôi bắt nguồn từ cảnh đẹp trên đường Cổ Ngư hồi còn đi học. Nó đeo đuổi tôi mãi đến lúc đầu đã bạc vẫn vương vấn mấy câu: ''Gió đông mơ dáng hoa đào - trà Phương Bối đậm nhớ Sao Trên Rừng''".


Năm [[1954]], ông di cư vào Nam. Tại [[Sài Gòn]], ông làm viên chức, dạy đại học, viết nhiều sách về triết học và văn học cổ Trung Hoa. Lúc này ông quen với [[Nguyễn Hiến Lê]], hai người cộng tác viết và dịch nhiều sách giá trị như "Chiến quốc sách", "Sử ký Tư Mã Thiên", "Đại cương triết học Trung Quốc"...
Năm [[1954]], ông di cư vào Nam. Tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], ông làm viên chức, dạy đại học, viết nhiều sách về [[triết học]] và văn học cổ [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Lúc này ông thân với [[Nguyễn Hiến Lê]], hai người cộng tác viết và dịch nhiều sách giá trị như "Chiến quốc sách", "Sử ký Tư Mã Thiên", "Đại cương triết học Trung Quốc"...


Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông ở lại Việt Nam, tiếp tục viết nhưng không nhiều như trước.
Sau [[30 tháng 4]] năm [[1975]], ông tiếp tục viết nhưng không nhiều như trước.


Đến 14 giờ 55 phút chiều 22 tháng 10 năm 2005, ông qua đời tại nhà riêng ở quận 4, thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 102 tuổi.
Đến 14 giờ 55 phút chiều [[22 tháng 10]] năm [[2005]], ông qua đời tại nhà riêng ở quận 4, [[Thành phố Hồ Chí Minh]], hưởng thọ 102 tuổi.
==Tác phẩm==
*Cô độc - dịch truyện [[Lỗ Tấn]] ([[1954]])
*Cái đêm hôm ấy - (dịch Somerset Maugham)
*Lỗ Tấn tuyển tập ([[1987]]).
*Tấc lòng (thơ [[1993]]).
*[[Vương Duy]] thi tuyển ([[1992]]).


===Soạn chung với Nguyễn Hiến Lê===
==Vài đoạn thơ==
*Đại cương triết học Trung Quốc, thượng và hạ ([[1965]]).
*[[Chiến Quốc sách|Chiến quốc sách]] ([[1967]]).
*[[Sử ký Tư Mã Thiên]] ([[1972]]).
*[[Tuân Tử]] ([[1974]]).
*[[Hàn Phi Tử]] ([[1975]]).


==Nhận xét==
:"Gió lộng lên...bóng rộng lên...
Học giả [[Nguyễn Hiến Lê]], đồng nghiệp và là người bạn tâm giao (cũng là anh em bạn rể), đã có những lời nhận xét khá thú vị về con người Giản Chi cũng như thơ của ông:
:Chiều rồi! Ngày đẹp tàn thêm một ngày!
:''Ông Giản Chi là một nghệ sĩ (...) tính tình hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng.''

==Giới thiệu vài đoạn thơ==
:''Gió lộng lên...bóng rộng lên...
:''Chiều rồi! Ngày đẹp tàn thêm một ngày!''
:...
:...
:Lòng tôi cần lắm tịch liêu
:''Lòng tôi cần lắm tịch liêu
:Một hai tình bạn trong chiều nhớ thương
:''Một hai tình bạn trong chiều nhớ thương
:Khoan khoan đừng gióng sáp hường
:''Khoan khoan đừng gióng sáp hường
:Đêm nay nhóm lại lò hương đêm nào..." (Chiều)
:''Đêm nay nhóm lại lò hương đêm nào...''
:(Chiều)


:''Tiếng vượn rừng thiêng trĩ dậm mường
:''Nửa trời sơn mộ, nét thê lương!
:''Mây về non thẳm bâng khuâng bạc;
:''Buồm ruổi sông xa lặng lẽ vàng...''
:(Chiều rừng)


:''Chẳng biết chùa Hương Tích
:''Non mây mấy dặm sâu
:''Rừng già không lối lách
:''Núi thẳm vẳng chuông đâu?
:''Đá dựng suối nghẹn tiếng
:''Thông xanh nắng lạnh màu
:''Đầm không, trời chạng vạng
:''Niềm tục gột làu làu.''
:(dịch ''Hương Tích tự'', Vương Duy)


==Liên kết==
::Tiếng vượn rừng thiêng trĩ dậm mường
*[http://www.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/10/26/126817.tno - Báo Thanh Niên], bài viết vào ngày mất của Giản Chi.
::Nửa trời sơn mộ, nét thê lương!
::Mây về non thẳm bâng khuâng bạc;
::Buồm ruổi sông xa lặng lẽ vàng..." (Chiều rừng)


==Tham khảo==
{{tham khảo}}


[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975]]

[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam thời kỳ từ 1976]]
"Một bước xa vời...hai cách biệt !
[[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam thời kỳ 1945–1975]]
Lạnh lùng hoa sữa, ánh trăng hôm...
[[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam thời kỳ từ 1976]]
Yêu thương, ai gửi đâu làn gió ?
[[Thể loại:Dịch giả Việt Nam]]
Lối quạnh mơ về đượm nhớ thơm." (Chia tay)
[[Thể loại:Học sinh trường Bưởi]]

[[Thể loại:Người Hà Nội]]
==Nhận xét==
[[Thể loại:Người thọ bách niên Việt Nam]]
Học giả [[Nguyễn Hiến Lê]], đồng nghiệp và là người bạn tâm giao, đã có những lời nhận xét khá thú vị về con người Giản Chi cũng như thơ của ông:
:"Ông Giản Chi là một nghệ sĩ (...) tính tình hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng". Khoảng 10 năm trước, cụ nói với Thanh Niên: "Giờ này, tôi thấm thía mấy chữ "vạn pháp giai không". Nhờ thế, tuổi già của tôi thanh thản, nhẹ nhàng, không nghĩ ngợi về chuyện được thua, còn mất”."

==Tác phẩm==
*Cô độc - dịch truyện [[Lỗ Tấn]] ([[1954]])
*Cái đêm hôm ấy - (dịch Somerset Maugham)
*Lỗ Tấn tuyển tập ([[1987]]).
*Tấc lòng (thơ [[1993]]).
*[[Vương Ma Cật]] họa sư thi Phật.

===Viết chung với Nguyễn Hiến Lê===
*Đại cương triết học Trung Quốc, thượng và hạ ([[1965]])
*[[Sử ký Tư Mã Thiên]] ([[1972]])
*[[Chiến quốc sách]] ([[1967]]).
*[[Tuân Tử]].
*[[Hàn Phi Tử]].

==Liên kết==
*[http://www.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/10/26/126817.tno] - Báo Thanh Niên, bài viết vào ngày mất của Giản Chi.
[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam]][[Thể loại:Nhà thơ Việt Nam]][[Thể loại:dịch giả Việt Nam]][[Thể loại:Học sinh trường Bưởi]]

Bản mới nhất lúc 05:19, ngày 30 tháng 11 năm 2023

Giản Chi
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Nguyễn Hữu Văn
Ngày sinh
1904
Nơi sinh
Làng Cót
Mất
Ngày mất
22 tháng 10, 2005
Nơi mất
Quận 4
Giới tínhnam
Quốc tịchViệt Nam
Nghề nghiệpnhà văn, nhà thơ, giáo viên, dịch giả
Sự nghiệp nghệ thuật
Bút danhGiản Chi

Nguyễn Hữu Văn (1904 - 22 tháng 10 năm 2005), thường được biết đến với bút danh Giản Chi, là học giả, nhà văn, nhà giáo, nhà thơ và là một dịch giả Việt Nam. Ông là bạn tâm giao của Nguyễn Hiến Lê, một học giả nổi tiếng khác.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Giản Chi sinh năm Giáp Thìn (1904), quê ở làng Yên Quyết (làng Cót), phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ông theo Nho học từ nhỏ. Năm 14 tuổi đỗ khóa sinh, vào học trường Bưởi.

Tốt nghiệp Cao đẳng công chính Hà Nội, ông vào làm ngành bưu điện tại Lai Châu, Sơn La, tỉnh Hải Dương. Lúc này ông cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội.

Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông đem ruộng đất cho cách mạng và ủng hộ tài vật cho kháng chiến. Sau đó ông đem gia đình tản cư lên miền thượng du, đến vùng Hoàng Lưu, sông Vàng, ngụ tại Thanh Oai.

Năm bốn mươi tuổi, ông có hai câu thơ nói về quãng đời phiêu bạt của mình:

Dòng đời khôn đổi làm sông rượu
Bừng giấc quan hà lại muốn say

Ông có làm thơ đăng báo từ năm 1940, nhưng đến năm 1994 mới in thành tập "Tấc lòng". Ông từng nói: "Duyên làm thơ của tôi bắt nguồn từ cảnh đẹp trên đường Cổ Ngư hồi còn đi học. Nó đeo đuổi tôi mãi đến lúc đầu đã bạc vẫn vương vấn mấy câu: Gió đông mơ dáng hoa đào - trà Phương Bối đậm nhớ Sao Trên Rừng".

Năm 1954, ông di cư vào Nam. Tại Sài Gòn, ông làm viên chức, dạy đại học, viết nhiều sách về triết học và văn học cổ Trung Hoa. Lúc này ông thân với Nguyễn Hiến Lê, hai người cộng tác viết và dịch nhiều sách giá trị như "Chiến quốc sách", "Sử ký Tư Mã Thiên", "Đại cương triết học Trung Quốc"...

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông tiếp tục viết nhưng không nhiều như trước.

Đến 14 giờ 55 phút chiều 22 tháng 10 năm 2005, ông qua đời tại nhà riêng ở quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 102 tuổi.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cô độc - dịch truyện Lỗ Tấn (1954)
  • Cái đêm hôm ấy - (dịch Somerset Maugham)
  • Lỗ Tấn tuyển tập (1987).
  • Tấc lòng (thơ 1993).
  • Vương Duy thi tuyển (1992).

Soạn chung với Nguyễn Hiến Lê

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhận xét

[sửa | sửa mã nguồn]

Học giả Nguyễn Hiến Lê, đồng nghiệp và là người bạn tâm giao (cũng là anh em bạn rể), đã có những lời nhận xét khá thú vị về con người Giản Chi cũng như thơ của ông:

Ông Giản Chi là một nghệ sĩ (...) tính tình hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng.

Giới thiệu vài đoạn thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Gió lộng lên...bóng rộng lên...
Chiều rồi! Ngày đẹp tàn thêm một ngày!
...
Lòng tôi cần lắm tịch liêu
Một hai tình bạn trong chiều nhớ thương
Khoan khoan đừng gióng sáp hường
Đêm nay nhóm lại lò hương đêm nào...
(Chiều)
Tiếng vượn rừng thiêng trĩ dậm mường
Nửa trời sơn mộ, nét thê lương!
Mây về non thẳm bâng khuâng bạc;
Buồm ruổi sông xa lặng lẽ vàng...
(Chiều rừng)
Chẳng biết chùa Hương Tích
Non mây mấy dặm sâu
Rừng già không lối lách
Núi thẳm vẳng chuông đâu?
Đá dựng suối nghẹn tiếng
Thông xanh nắng lạnh màu
Đầm không, trời chạng vạng
Niềm tục gột làu làu.
(dịch Hương Tích tự, Vương Duy)

Liên kết

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]