Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Giải Grammy lần thứ 60

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giải Grammy lần thứ 60
Ngày28 tháng 1 năm 2018 (2018-01-28)
7:30–11:00 tối (giờ bờ đông)
Địa điểmMadison Square Garden,
thành phố New York, Hoa Kỳ
Dẫn chương trìnhJames Corden
Nhiều danh hiệu nhấtBruno Mars (6)
Nhiều đề cử nhấtJay-Z (8)
Truyền hình
KênhCBS
59 Giải Grammy 61 >

Giải Grammy lần thứ 60 diễn ra vào ngày 28 tháng 1 năm 2018. Đài CBS tường thuật trực tiếp buổi lễ này từ trung tâm Madison Square Gardenthành phố New York.[1] Đây là lần đầu tiên lễ Grammy không diễn ra tại Los Angeles kể từ buổi lễ năm 2003 (nơi có Trung tâm Staples, ngôi nhà quen thuộc của Grammy từ năm 2004). James Corden là người dẫn chương trình của lễ Grammy này.[2]

Lễ trao giải vinh danh những bản thu âm ca nhạc phát hành và các nghệ sĩ, ban nhạc hoạt động trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 10 năm 2016 đến ngày 30 tháng 9 năm 2017. Buổi lễ trao giải trước (The Premiere Ceremony, dành cho các giải phụ và ít được quan tâm hơn) cũng được tổ chức cùng ngày ngay trước buổi lễ trao giải chính.

Người trao giải/giới thiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Người chiến thắng sẽ xuất hiện đầu tiên và được đánh dấu bằng chữ In đậm.

Hạng mục chung

[sửa | sửa mã nguồn]
Thu âm của năm
Album của năm
  • 24K MagicBruno Mars
    • Shampoo Press & Curl, nhà sản xuất; Serban Ghenea, John Hanes & Charles Moniz, xây dựng/hòa âm; Christopher Brody Brown, James Fauntleroy, Philip Lawrence & Bruno Mars, nhạc sĩ; Tom Coyne, trưởng nhóm kỹ thuật
  • "Awaken, My Love!" – Childish Gambino
  • 4:44Jay-Z
  • DamnKendrick Lamar
    • DJ Dahi, Sounwave & Anthony Tiffith, nhà sản xuất; Derek "MixedByAli" Ali, James Hunt & Matt Schaeffer, xây dựng/hòa âm; K. Duckworth, D. Natche, M. Spears & A. Tiffith, nhạc sĩ; Mike Bozzi, trưởng nhóm kỹ thuật
  • MelodramaLorde
    • Jack Antonoff & Lorde, nhà sản xuất; Serban Ghenea, John Hanes & Laura Sisk, xây dựng/hòa âm; Jack Antonoff & Ella Yelich-O'Connor, người viết nhạc; Randy Merrill, trưởng nhóm kỹ thuật
Bài hát của năm
Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất
Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất
Trình diễn Song ca/nhóm nhạc pop xuất sắc nhất
Album giọng pop truyền thống xuất sắc nhất
Album giọng pop xuất sắc nhất

Nhạc điện tử/dance

[sửa | sửa mã nguồn]
Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất
Album nhạc điện tử/dance xuất sắc nhất
Trình diễn rock xuất sắc nhất
Trình diễn metal xuất sắc nhất
Bài hát rock hay nhất
Album rock xuất sắc nhất

Nhạc alternative

[sửa | sửa mã nguồn]
Album nhạc alternative xuất sắc nhất

Video âm nhạc/Phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Video âm nhạc xuất sắc nhất
Phim âm nhạc xuất sắc nhất
  • The Defiant Ones – (nhiều nghệ sĩ)
    • Allen Hughes, đạo diễn video; Sarah Anthony, Fritzi Horstman, Broderick Johnson, Gene Kirkwood, Andrew Kosove, Laura Lancaster, Michael Lombardo, Jerry Longarzo, Doug Pray & Steven Williams, nhà sản xuất video
  • One More Time With FeelingNick Cave & The Bad Seeds
    • Andrew Dominik, đạo diễn video; Dulcie Kellett & James Wilson, nhà sản xuất video
  • Long Strange TripThe Grateful Dead
    • Amir Bar-Lev, đạo diễn video; Alex Blavatnik, Ken Dornstein, Eric Eisner, Nick Koskoff, Justin Kreutzmann, nhà sản xuất video
  • Soundbreaking – (nhiều nghệ sĩ)
    • Maro Chermayeff & Jeff Dupre, đạo diễn video; Joshua Bennett, Julia Marchesi, Sam Pollard, Sally Rosenthal, Amy Schewel & Warren Zanes, nhà sản xuất video
  • Two Trains Runnin' – (nhiều nghệ sĩ)
    • Sam Pollard, đạo diễn video; Benjamin Hedin, nhà sản xuất video

Tưởng nhớ

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều đề cử nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Những nghệ sĩ sau đây nhận được nhiều đề cử nhất:

Hai:

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “When are the 2018 GRAMMYs?”. Grammy.com. ngày 9 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2017.
  2. ^ “James Corden to host 60th GRAMMYs”. Grammy.com. ngày 18 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2017.
  3. ^ “Kelly Clarkson, Tony Bennett, Alicia Keys & More Set to Present at the 60th Annual Grammy Awards”. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]