Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                

Noi Dung

DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1: Bộ máy tổ chức NHNN Hình 2: Bộ máy tổ chức FED Hình 3: Bản đồ các khu vực quản lý của các Ngân hàng FED khu vực Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ 01/2008 – 01/2011. Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79 Bảng 3: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BH: Bảo hiểm BHTG: Bảo hiểm tiền gửi CK: chứng khoán CSHT: cơ sở hạ tầng FED: Cục dự trữ liên bang Mỹ (federal reserve system) NGNN: Ngân hàng Nhà nước NHDT: Ngân hàng dự trữ NHNNVN: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHQG: Ngân hàng Quốc gia NHTK: Ngân hàng tiết kiệm NHTM: Ngân hàng thương mại NHTW: Ngân hàng Trung Ương TCNH: Tài chính – Ngân hàng TCTD: tổ chức tín dụng TTCK: Thị trường chứng khoán TTTC: Thị trường tài chính PHẦN MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới hiện nay, hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng vì tạo ra các kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến người thiếu vốn, cung cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính lỏng, thông tin các giao dịch tài chính. Hoạt động của các tổ chức tài chính trên thế giới đã ra đời và phát triển mạnh mẽ…Tính ưu việt của các tổ chức tài chính này đã tạo nên một kênh dẫn vốn rất quan trọng đến các doanh nghiệp và thực tế cho thấy hoạt động của các tổ chức tài chính là một trong những nhân tố đẩy nhanh trình độ phát triển công nghệ ở các nước, nhất là đối với các nước chậm phát triển. Đối với một số quốc gia trên thế giới thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Và để đáp ứng được nhu cầu này một số nước đã rất tích cực trên mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên trong thời gian qua vốn đầu tư còn bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có chính sác đầu tư còn nhiều bất cập. Nhằm khắc phục tình trạng này việc đưa ra một cơ chế đầu tư hợp lý là điều cần thiết. Chính vì vậy các tổ chức tài chính ra đời ở những nước này là một giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên hoạt động của các tổ chức tài chính này còn mới mẻ sơ khai chưa có môi trường pháp lý và định hướng rõ ràng. Thiếu những văn bản pháp quy hoàn chỉnh và đồng bộ, có một số văn bản pháp quy đến nay đã không còn phù hợp. Và tất nhiên để hoạt động ngày một hiệu quả hơn, các tổ chức tài chính đều mong muốn đất nước có một hệ thống tài chính rõ ràng, tối ưu và đi sát với thực tiễn hiện nay. Hệ thống tài chính Mỹ được cho là một hệ thống phức tạp về cấu trúc và chức năng. Đặc biệt nền kinh tế Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ năm 1930 không chỉ khiến cho nền kinh tế của Mỹ mà kinh tế của cả thế giới cũng lâm vào tình trạng suy thoái trầm trọng. Một nguyên nhân cơ bản là sự giám sát hệ thống tài chính. Tại Việt Nam, hệ thống tài chính còn non trẻ và ít nhiều cũng đã hứng chịu tác động tiêu cực theo xu thế suy thoái kinh tế của Mỹ và toàn cầu. Do đó đặt ra cơ hội có thể rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong hệ thống tài chính ở Việt Nam, góp phần vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế là một yêu cầu cấp thiết đang đặt ra từng ngày. Nhận thức rõ được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm đã chọn đề tài: “So sánh hệ thống tài chính của Việt Nam và Mỹ” làm đề tài nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài: Cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam. Nắm được nét chính về hoạt động và công cụ tài chính của các thị trường tài chính. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của các định chế tài chính như: ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán,… Phương pháp nghiên cứu Thu thập thông tin, dữ liệu từ các nguồn khác nhau. So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp. Phương pháp mô hình hóa sử dụng bảng biểu, đồ thị. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu dựa trên phương pháp tư duy phân tích kinh tế. Đi từ tổng quan đến cụ thể cấu trúc mô hình thị trường tài chính. Do đây là một lĩnh vực có tính vĩ mô cao, cộng với trình độ nhóm viết còn hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong cô đóng góp, chỉ bảo để đề tài của nhóm được hoàn chỉnh hơn. PHẦN NỘI DUNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Khái niệm Thị trường tài chính là một thị trường mà trong đó tài sản tài chính được giao dịch. Ngoài việc cho phép trao đổi tài sản tài chính phát hành trước đó, TTTC tạo điều kiện cho vay và cho vay bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán tài sản tài chính mới được ban hành. Phân loại 2.1. Việt Nam Dựa vào thời hạn tín dụng: Thị trường tiền tệ: là nơi các công cụ ngắn hạn được mua bán với số lượng lớn. Thị trường vốn: là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung gian dài hạn (do các chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp phát hành) được trao dổi chuyển nhượng mua bán theo quy định của pháp luật Dựa vào loại tín dụng: hiện việt nam cũng đã có thị trường tín phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, thị trường vay nợ, ngân hàng Thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp Thị trường tập trung, thị trường phi tập trung: số lượng doanh nghiệp giao dịch trên thị trường tập trung là rất ít, giao dịch trên thị trường phi tập trung là chủ yếu Thị trường chính thức và phi chính thức Thị trường chính thức: các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng khoáng… Thị trường không chính thức: hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng vi mô ở nông thôn Mỹ Thị trường tài chính Hoa Kỳ cũng bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ: liên quan đến vay ngắn hạn, cho vay, mua và bán với kỳ hạn ban đầu của một năm hoặc ít hơn. Kinh doanh trong thị trường tiền tệ được thực hiện qua truy cập, bán buôn. Cụ thể với những công cụ: trái phiếu kho bạc, thương phiếu, ngân hàng, chấp nhận, tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, thỏa thuận mua lại, các quỹ liên bang, các chứng khoán ngắn hạn và tài sản thế chấp. Nó cung cấp tính thanh khoản tài trợ cho hệ thống tài chính toàn cầu. Thị trường vốn Mỹ: người Mỹ tự hào về hiệu quả của thị trường chứng khoán và thị trường vốn khác, cho phép số lượng lớn người bán và người mua tham gia vào hàng triệu giao dịch mỗi ngày. Chính phủ liên bang cũng đã đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc đảm bảo xử lý tính trung thực và công bằng qua các giao dịch. Việc thực hiện có hiệu quả vốn thị trường, cổ phiếu và trái phiếu được phát hành và giao dịch, tạo ra lợi thế rất lớn về kinh tế tài chính Mỹ nói chung, và thành phố New York nói riêng. Ví dụ:về các thị trường tài chính bao gồm New York Stock Exchange (bán lại cổ phần chứng khoán phát hành trước đó), thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ (bán lại trái phiếu phát hành trước đó), và bán đấu giá trái phiếu kho bạc Mỹ (doanh số bán hàng-tín phiếu kho bạc mới ban hành). Tổ chức tài chính là một tổ chức có chính nguồn gốc của lợi nhuận thông qua các giao dịch tài sản tài chính. Ví dụ của các tổ chức tài chính bao gồm môi giới giảm giá (ví dụ, Charles Schwab và Associates), ngân hàng, các công ty bảo hiểm, và đa chức năng tổ chức tài chính phức tạp, chẳng hạn như Merrill Lynch. Nhận xét Việt Nam và Mỹ đều chia thị trường tài chính thành hai thị trường chính: thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tuy nhiên: Thị trường tiền tệ Hoa Kỳ rất hiệu quả ở chỗ nó cho phép một số tiền lớn để được chuyển giao một cách nhanh chóng và với chi phí thấp từ một đơn vị kinh tế (kinh doanh, chính phủ, ngân hàng, vv) sang một đơn vị kinh tế khác trong thời gian tương đối ngắn. CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH Ngân hàng trung ương Trên thế giới hiện nay có hai mô hình tổ chức NHTW: một là mô hình ngân hàng trực thuộc Chính phủ như: NHTW Anh, Pháp, Nhật, Việt Nam,…; hai là mô hình NHTW không trực thuộc Chính phủ như: FED,… Thành lập NHNNVN: sắc lệnh 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 6/5/1951. FED: năm 1913 theo Federal Reserve Act (Đạo luật dự trữ liên bang) được Quốc Hội Mỹ thông qua. Vị trí NHNNVN: là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NHNNVN là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. FED là tổ chức độc lập với chính phủ và Quốc hội Mỹ. Trụ sỡ chính của FED hiện nay ở Washington, D.C Bộ máy tổ chức NHNNVN: thống đốc các cục trưởng, vụ trưởng và Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc Gia,… FED: Hội đồng thống đốc, ủy ban thị trường, các ngân hàng của FED và các ngân hàng địa phương. Lãnh đạo NHNNVN: Thống đốc NHNN là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo NHNN; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Thống đốc NHNN do thủ tướng chính phủ đề nghị quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm. Thống đốc của NHNNVN hiện nay là: Nguyễn Văn Bình. Từ khi thành lập đến nay thì NHNNVN đã trải qua 13 đời thống đốc: Nguyễn Lương Bằng (1951 – 1952), Lê Viết Lượng (1952 – 1963), Tạ Hoàng Cơ (1963 – 1974), Đặng Việt Châu (1974 – 1976), Hoàng Anh (1976 – 1977), Trần Dương (1977 – 1981), Nguyễn Duy Gia (1981 – 1986), Lữ Minh Châu (1986 – 1989), Cao Sỹ Liêm (1989 – 1997), Đỗ Quế Lượng (1997 – 1998), Nguyễn Tấn Dũng (1998 – 1999), Lê Đức Thúy(1999 – 2007), Nguyễn Văn Giàu (2007 – 2011), Nguyễn Văn Bình (2011 đến nay). FED: Điều hành FED là Ủy ban Thống đốc gồm bảy thành viên do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm và Thượng viện Mỹ phê chuẩn, nhiệm kỳ kéo dài đến 14 năm để khỏi chịu tác động chính trị. Riêng chủ tịch và phó chủ tịch có nhiệm kỳ bốn năm. Chủ tịch FED do Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên khác của FED đại diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ, còn lại là các ông chủ ngân hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED. Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ được tối đa 4 người, và 4 người này phải được Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của FED hiện nay là Giáo Sư Ben Bernanke. Từ khi thành lập đến nay FED đã có 14 đời chủ tịch: Charles S. Hamlin (1914 - 1916), William P. G. Harding (1916 – 1922), Daniel R. Crissinger (1923 – 1927), Roy A. Young (1927 – 1930), Eugene Meyer ( 1930 – 1933), Eugene R. Black (1933 – 1934), Marriner S. Eccles (1934 – 1948), Thomas B. McCabe (1948 - 1951), William McChesney Martin, Jr (1951 – 1970), Arthur F. Burns (1970 – 1978), G. William Miller (1978 – 1979), Paul A. Volcker (1979 – 1987), Alan Greenspan (1987 – 2006), Ben BernanKe 2006 – nay) Tính độc lập: bao gồm độc lập về việc lựa chọn công cụ và độc lập về lựa chọn mục tiêu khi thực hiện chính sách tiền tệ) NHNNVN: thấp do trực thuộc và phải nhận chỉ thị từ chính phủ( các chính sách cũng phải có chính phủ quyết định), ngân sách hoạt động cũng do chính phủ xét duyệt. FED: Cao do độc lập với chính phủ ( để thay đổi quy chế của FED Quốc hội thậm chí còn phải sửa đổi cả hiến pháp), các lãnh đạo có nhiệm kỳ và không được tái cử, ngân sách hoạt động độc lập. Các ngân hàng thành viên NHNNVN: NHNNVN và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố. FED: FED gồm 12 ngân hàng địa phương và 25 chi nhánh ở khắp nước Mỹ nên chính thức mà nói, đây là hệ thống ngân hàng trung ương chứ không phải là một ngân hàng trung ương riêng lẻ. 12 ngân hàng của FED gồm: Boston, New York, philadelphia, Cleveland, Richmon, Atlanta, Chicago, St. Luois, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco, 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ. Đồng tiền phát hành NHNNVN: Việt Nam đồng “đ” do NHNNVN phát hành FED: đô la Mỹ (USD). Do các NHDT khu vực phát hành Mỗi ngân hàng khu vực của FED được ký hiệu bằng chữ cái. Những cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành. Boston (A), New York (B), philadelphia (C), Cleveland (D), Richmon (E), Atlanta (F), Chicago (G) , St. Luois (H) , Minneapolis (I) , Kansas City (J), Dallas (K), San Francisco (L) Ngân sách hoạt động NHNNVN: Được sử dụng các khoản thu để trang trải chi phí hoạt động của mình, chênh lệch thu chi sau khi trích quỹ được nộp vào ngân sách nhà nước FED: độc lập về tài chính, doanh thu đến từ tiền lãi của các tài sản nắm giữ Nhiệm vụ NHNNVN: Phát hành tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý tiền tệ tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ Việt Nam Phát hành tiền tệ: Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, NHTW trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp NHTW điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế. Quản lý tham mưu chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính Phủ Việt Nam: Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên NHTW phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này NHTW gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô Thực hiện chính sách tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở: Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ. Qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng. Đặc điểm: do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ vì khối lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì thực hiện thống qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Dự trữ bắt buộc Là số tiền dự trữ bắt buộc mà các Ngân hàng phải giữ lại do NHTW quy định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau: Bảng 1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam từ tháng01/2008 – 01/2011 Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc (VND) Văn bản 11%1- 5%2 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008 10%1- 4%2 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 8%1- 2%2 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 6%1- 2%2 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 5%1- 1%2 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 3%1 - 1%2 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009 (1): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng (2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên Nguồn: http://www.sbv.gov.vn Bảng 2: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79 Loại hình tổ chức tín dụng 379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN Tiền gửi VND không kỳ hạn và dưới 12 tháng Tiền gửi VND từ 12-24 tháng Tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và dưới 12 tháng Tiền gửi ngoại tệ từ 12-24 tháng 1. NHTM nhà nước, NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty cho thuê tài chính. 3% 1% 4% 2% 2. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 1% 1% 3% 1% 3. NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân. 1% 1% 3% 1% 4. Tổ chức tín dụng khác. 0% 0% 0% 0% Nguồn: http://www.sbv.gov.vn Lãi suất chiết khấu: Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu tố sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hoạch toán kinh doanh FED: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , giám sát và quản lý các tổ chức tín dụng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế , cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia Kiểm soát cung ứng tiền tệ: FED kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng các hoạt động thị trường mà qua đó FED mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với FED gọi là người giao dịch ưu tiên (primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của FED ở Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần với tỷ lệ mục tiêu, gồm: Thỏa thuận mua lại: Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường của NHDT liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của FED. Trong ngày giao dịch, FED sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại FED hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày. Giao dịch mua đứt: Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt. Trong giao dịch này, FED mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại FED. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng. Từ những năm 1980, FED cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại FED, do đó mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế. Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). FED tiến hành giao dịch này hàng ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), FED sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, FED sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi. Thực hiện chính sách tiền tệ: Mua và bán trái phiếu Chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (FED) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi FED bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn. Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu FED yêu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên. Thay đổi lãi suất của khoản vay từ FED: Các ngân hàng thành viên của FED vay tiền từ FED để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay. Bảng 3 : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010 Reserve Requirements Yêu cầu dự trữ Liability Type Loại trách nhiệm Requirement Yêu cầu % of liabilities % Của các khoản nợ Effective dateNgày có hiệu lực Net transaction accounts 1 Tài khoản giao dịch thuần $0 to $10.7 million 2 $ 0 đến $ 10.700.000 0 0 12-30-10 30/12/2010 More than $10.7 million to $58.8 million 3 Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000 $ 3 3 12-30-10 30/12/2010 More than $58.8 million Nhiều hơn $ 58.800.000 10 10 12-30-10 30/12/2010 Nonpersonal time deposits Nonpersonal tiền gửi thời gian 0 0 27/12/199012-27-9027/12/1990 Eurocurrency liabilities Eurocurrency nợ 0 0 12-27-90 27/12/2010 Nguồn: http://www.federalreserve.gov Tỷ lệ chiết khấu: FED thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường FED còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các NHTM phải trả khi vay tiền từ FED. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại FED từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của FED. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ FED mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay. Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so với "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất. Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn. Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn tại Fed” mỗi lần ở mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần, từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi suất do FED điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED" tụt xuống mức 1%, con số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 – 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 06/2004, Cục dự trữ liên bang bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25% ngày 08/08/2006. Có thể FED cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị trường nhằm thay đổi tỷ lệ cho vay dài hạn. Tuy nhiên năng lực của nó yếu hơn rất nhiều các định chế tài chính tư nhân. Các định chế tài chính Ngân hàng thương mại Về khái niệm Ở Việt Nam: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Các nghiệp vụ của NHTM Huy động vốn: nhận tiền gửi, các loại tiền bao gồm: Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi mà không phải tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào khác. Có nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn: Tiền gửi dùng séc: là loại tiền gửi dùng để chi trả các Séc và hối phiếu Tiền gửi tiết kiệm: là tiền gửi vào tài khoản tiết kiệm còn gọi là tài khoản dùng sổ. Đó là những khoản tiền gửi nhỏ, ổn định tương đối lâu ở tài khoản, được hưởng lãi, tương đối cao hơn lãi của tiền gửi thông dụng Luật Mỹ cho phép ngân hàng có thể buộc người gửi tiết kiệm phải báo 30 ngày trước khi rút nhưng các ngân hàng không sử dụng quyền này, không đòi hỏi phải báo trước vì nó có thể bị giới hạn về ngạch số tiền gửi tối đa (100.000 USD) Tiền gửi có thấu chi: ở Mỹ, có sự phối hợp gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm và tài khoản dùng séc bằng cách gửi tiền vào tài khoản ATS (automatic Transfer Service Account). Từ ngày 1/11/1978, NHTM được phép trả lãi cho TK dùng séc bằng cách gửi tiền vào TK dùng séc để rút tiền bằng séc Các loại tiền gửi đặc biệt của Hoa Kỳ: ngoài các loại tiền gửi thông dụng như của Việt Nam thì Hoa Kỳ còn có những loại tiền gửi vào những tài khoản đặc biệt được áp dụng từ thập niên 1970 và 1980. Đó là tiền gửi phối hợp giữa tiền gửi dùng Séc và tiền gửi tiết kiệm vào những tài khoản giao dịch bao gồm lệnh rút tiền giao dịch và dịch vụ chuyển ngân tự động. Nghiệp vụ đầu tư vốn: Đầu tư chứng khoán: các định chế tài chính là các nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Đây là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay. Thông thường chứng khoán mà họ đầu tư bao gồm những chứng khoán an toàn nhất như: trái phiếu kho bạc đến những khoản đầu tư tương đối an toàn. Nếu tính về thời hạn, có những chứng khoán rất ngắn hạn chỉ có 24h ở Mỹ có thỏa ước mua lại (RPs) do NHTM phát hành để vay trong 24h, có khi gọi là thỏa ước qua đêm. Cho vay: là hình thức thông dụng nhất của các định chế tài chính nói chung và của ngân hàng nói riêng trên khắp thế giới. Việt Nam hay Mỹ cũng vậy. Tại Hoa Kỳ, cho vay chiếm gần 60% tổng tích tài sản của NHTM. Các tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật nước ngoài Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân và các hình thức khác. Các loại hình tổ chức tín dụng (theo sở hữu): Tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam Ngân hàng tiết kiệm NHTK được thành lập với mục đích huy động các khoản tiền tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Chủ nhân của các ngân hàng tiết kiệm cũng chính là những người gửi tiền tiết kiệm.  Phương thức hoạt động của NHTK mang tính tương trợ là chủ yếu, chứ không như ngân hàng thương mại là nhằm mục đích kinh doanh là chính. Vốn hoạt động chủ yếu của NHTK là từ tiền gửi tiết kiệm của dân chúng hoặc là vốn đóng góp của các nhà hảo tâm với tính chất hỗ trợ người nghèo là chính hơn là đóng góp để kiếm lời. Loại ngân hàng này không phát hành các công cụ nợ để vay vốn của công chúng và cũng hầu như không vay của các tổ chức nước ngoài hay NHTW, trừ trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt. Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các NHTK cho vay rất thận trọng. Tiêu chuẩn hàng đầu trong vấn đề cho vay là sự an toàn. Đối tượng cho vay chủ yếu là các khoản vay cầm cố, thế chấp bằng nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác vay. Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng này cũng chính là những người đã gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Lãi suất cho vay thường rất thấp vì nó mang tính chất tương trợ nhiều hơn là kinh doanh. Ở Mỹ, NHTK tồn tại dưới hình thức các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual savings banks). Các NHTK tương trợ này thu hút tiền vốn bằng cách nhận tiền gửi và dùng chúng trước hết để cho vay thế chấp. Những người gửi tiền đồng thời là người chủ sở hữu các ngân hàng này. Trước năm 1980, các ngân hàng này bị hạn chế ở các khoản cho vay bất động sản, nhưng ngày nay họ đã được phép phát hành các tài khoản tiền gửi có thể phát séc dưới dạng các tài khoản NOW hay Super NOW và thực hiện các khoản cho vay khác ngoài cho vay bất động sản như vay tiêu dùng, vay cho sản xuất nông nghiệp, cũng như cung cấp các dịch vụ như tín thác, phát hành thẻ tín dụng. Ở Việt Nam không có NHTK riêng biệt, hầu như tất cả các ngân hàng thương mại đều có bộ phận quỹ tiết kiệm để huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư nhằm hình thành nguồn vốn chung của ngân hàng thương mại. Quỹ tín dụng Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của quỹ góp tiền vào quỹ dưới hình thức mua các thẻ thành viên (tương tự như cổ phiếu) có mệnh giá bằng nhau. Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Các thành viên của quỹ sẽ được hưởng quyền vay tiền của quỹ khi cần. Khi cần thêm vốn, quỹ lại phát hành thêm thẻ thành viên và tiếp nhận thêm những thành viên mới. Thông thường quỹ không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành viên vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán. Ở Việt Nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín dụng hợp tác. Đây là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác . Theo Điều 64 Luật Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng hợp tác được huy động vốn của các thành viên và của các tổ chức cá nhân để cho các thành viên vay. Việc cho các đối tượng không phải là thành viên vay phải được Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu chấp thuận và không được vượt quá tỷ lệ tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy định”. Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô hình tương tự như quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho vay có quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân viên của một công ty). Mục đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi suất thấp nhất có thể. Họ thu nhận vốn bằng cách bán cổ phần cho các thành viên và các thành viên ngoài việc được quyền vay ưu đãi còn được hưởng cả lãi từ cổ phần mà họ mua. Các khoản vay từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hoá tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các liên hiệp tín dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản tiền gửi thanh toán và có thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho vay tiêu dùng. Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán Việt Nam Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam: Ngày 28/7/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên đánh đấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Đầu năm 2006 được coi là mốc thời gian mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong giai đoạn 2007, luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Giai đoạn 2008: cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh. Giai đoạn 2009 đến nay: thị trường chứng khoán Việt Nam hồi phục chậm sau khủng hoảng. Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh Các công ty chứng khoán Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần … Thị trường chứng khoán Mỹ Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác. Thị trường chứng khoán Mỹ được thành lập vào năm 1792 và được hình thành hoàn chỉnh từ năm 1934 cho đến nay. Xét theo tính chất tổ chức thị trường, thị thường chứng khoán Mỹ được chia thành thị trường chứng khoán tập trung và thị trường chứng khoán phi tập trung. Các thị trường chứng khoán tập trung bao gồm 14 sở giao dịch chứng khoán trên khắp nước Mỹ. Sở giao dịch chứng khoán Newyork (NYSE) là sở giao dịch chứng khoán lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ, đây hiện là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường chứng khoán quốc gia. Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là thị trường chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ. Thị trường chứng khoán phi tập trung của Mỹ cũng rất phát triển, đó là Nasdaq. Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971 là thị trường có số lượng chứng khoán giao dịch lớn nhất ở Mỹ với 15000 chứng khoán. Chứng khoán của các công ty thuộc ngành Công nghệ thông tin, các công ty vừa và nhỏ chiếm đa số trên thị trường này. Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán Mỹ: Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ (SEC) Các sở giao dịch chứng khoán Các công ty chứng khoán Các tổ chức phát hành chứng khoán bao gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty cổ phần … Nhận xét: Ta có thể nhận thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ mới ra đời cách đây 12 năm và còn rất non trẻ so với thị trường chứng khoán Mỹ. So sánh thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam với một thị trường lâu đời như Mỹ là khập khiễng, nhưng thị trường Mỹ có một số điểm đáng để chúng ta học tập. Thị trường chứng khoán Mỹ hoạt động liên tục từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, nhưng luôn có rất nhiều người tham gia giao dịch với khối lượng cả tỷ cổ phiếu mỗi ngày. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán Mỹ đưa ra những quy định ngặt nghèo từ niêm yết đến báo cáo, từ môi giới đến tự doanh, từ phương thức giao dịch đến sử dụng tiền vay… Tất cả đều quy định thành luật rõ ràng và các công ty chứng khoán hay ngân hàng đầu tư có trách nhiệm thông báo những quy định đó cho khách hàng của họ. Do thị trường chứng khoán tiềm ẩn rủi ro mất vốn rất cao, nên đa số nhà đầu tư cá nhân đều ủy thác tài sản của họ cho những tổ chức chuyên nghiệp kinh doanh và quản lý hộ, chứ không tự đi kinh doanh như ở Việt Nam. Do đó, số lượng nhà đầu tư cá nhân rất ít. Trong khi đó, các tổ chức môi giới hay tư vấn đầu tư thường có uy tín, có đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm thực tế và phong cách chuyên nghiệp, không bao giờ trả lời cho khách hàng những vấn đề mà họ không thông thạo. Ngoài ra, các công ty chứng khoán bị ràng buộc với quy định: đảm bảo an toàn tài sản và khả năng sinh tồn cho nhà đầu tư trong trường hợp mất vốn. Có nghĩa là, nếu thu nhập của bạn thấp, mà bạn dùng hết tiền của bạn đi đầu tư vào những dạng đầu tư mang tính rủi cao sẽ không được chấp thuận. Đây là điều mà các công ty chứng khoán Việt Nam không có trong chính sách của họ, mà ngược lại, có công ty còn khuyến khích khách hàng vay tiền để đầu tư, khi thị trường chứng khoán tuột dốc thì chỉ việc giải chấp và thu hồi cả vốn lẫn lãi. Thậm chí, có công ty còn tư vấn khách hàng mua cổ phiếu, trong khi khối tự doanh của họ muốn bán ra cổ phiếu đó Mối tương quan giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện nay Thị trường chứng khoán Việt Nam và Mỹ hiện nay chưa có liên hệ chặt chẽ. Tuy nhiên, chúng cũng có sự biến động tương đối giống nhau vì nhìn chung thị trường chứng khoán chịu ảnh hưởng rất lớn của sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của thị trường chứng khoán và ngược lại khi nền kinh tế khủng hoảng ảnh hưởng nhiều tới thị trường chứng khoán ….Vậy sự biến động của thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ tương đối giống nhau là một điều hiển  nhiên. Khi Việt Nam hòa nhập hơn vào kinh tế khu vực và thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ thiết lập một mối liên hệ dài hạn với những thị trường lớn như Mỹ và các thị trường khác ngoài khu vực. Thị trường bảo hiểm Thị trường bảo hiểm Việt Nam Các công ty bảo hiểm: Đến năm 2011 có khoảng 57 công ty bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó có 2 doanh nghiệp nhà nước, 24 công ty bảo hiểm cổ phần, 4 công ty bảo hiểm liên doanh và 20 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) chiếm thị phần chủ yếu. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, ba doanh nghiệp có thị phần lớn nhất là Bảo Việt, Prudential và AIA. Các công ty bảo hiểm hoạt động theo Luật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài chính. Quy mô thị trường: Tổng số thu phí bảo hiểm năm 2011 gần 36.325 tỷ đồng, tăng 18,4% so với năm trước trong đó bao hiểm phi nhân thọ tăng 20,4% và bảo hiểm nhân thọ tăng 15%. Doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung đầu tư vào trái phiếu và gửi tại các ngân hàng thương mại Thị trường bảo hiểm Mỹ Đến năm 2006 có khoảng 2.648 công ty bảo hiểm tài sản - thương vong và 1.257 công ty bảo hiểm nhân thọ - y tế tại Mỹ, trên thực tế, con số này có thể lớn hơn. Tổng tài sản của công ty bảo hiểm tài sản - thương vong đạt 1.483tỷ $ trong năm 2006. Tài sản tiền mặt và vốn đầu tư là $ 1.229 tỷ $, các công ty bảo hiểm nhân thọ - y tế có tổng tài sản là 4.723 tỷ $. Tài sản tiền mặt và vốn đầu tư của các công ty bảo hiểm lên tới 2874 tỷ $. Các công ty bảo hiểm tại Mỹ thường có qui mô rất lớn, phát triển hệ thống trên khắp thế giới như AIA, Liberty Mutual, ACE … Nhận xét Nếu so sánh, ta có thề thấy qui mô cũng như thi trường của các công ty bảo hiểm Việt Nam trên toàn thế giới còn khoảng cách xa so với các công ty bảo hiểm Mỹ. Đây là một thách thức không nhỏ cho các công ty bảo hiểm trong nước khi thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự mở cửa hoàn toàn. Việc cấp giấy phép hoạt động cho các công ty bảo hiểm của Mỹ được thực hiện theo Hiệp định Thương mại song phương (BTA), do chính phủ Việt Nam và Mỹ phê chuẩn. Theo BTA, có hiệu lực từ tháng 12/2001, các công ty bảo hiểm của Mỹ có thể thành lập công ty liên doanh với các công ty Việt Nam từ tháng 12/2004 và công ty 100% vốn nước ngoài từ tháng 12/2006. Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, nhiều công ty bảo hiểm Mỹ đã dần thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Tập đoàn bảo hiểm nhân thọ hàng đầu của Mỹ New York Life (thành lập năm 1845t, với trên 200 tỷ USD giá trị tài sản, doanh thu hàng năm trên 25 tỷ USD, hiện có thị trường rộng lớn tại châu Mỹ và châu á) đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội vào 4/2000, Tháng 12/2001, New York Life chính thức gửi hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ với 100% vốn nước ngoài lên Bộ Tài chính. Đồng thời, hai công ty bảo hiểm khác của Mỹ là American International Group (AIG) và AON Inchibrok đã được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Mới đây, Việt Nam cũng chính thức được cấp phép hoạt động cho Tập đoàn ACE và Tập đoàn Marsh Inc., tập đoàn môi giới bảo hiểm lớn nhất thế giới, với 100% vốn của Mỹ, với thời hạn hoạt động 50 năm… Về triển vọng, quan hệ hợp tác kinh tế - bảo hiểm và những ngành khác như ngân hàng, tài chính nói riêng và các quan hệ song phương toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung chắc chắn sẽ có những phát triển mạnh mẽ hơn cả bề rộng, lẫn bề sâu. Một số loại hình tổ chức tài chính khác Quỹ lương hưu. Hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất lớn đó là bảo hiểm xã hội Việt Nam. Phần thặng dư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ yếu chuyển sang Quỹ Hỗ trợ phát triển. Một báo cáo gần đây cho biết, suy thoái kinh tế, khủng hoảng của thị trường tài chính,chứng khoán thu hẹp tín dụng đã khiến quỹ lương hưu của các công ty hàng đầu nước Mỹ bị thiệt hại tới 280 tỷ đôla. Theo thống kế của Merce, hãng chuyên tư vấn nhân lực, kể từ cuộc khủng hoảng tín dụng vào mùa thu năm 2007, quỹ lương hưu của 1.500 công ty hợp thành bộ chỉ số Standard & Poor 1.500 (là tổng hợp của S&P 500, SP 600 và S&P 400), đã tổn thất 280 tỷ đôla. Tiết kiệm bưu điện Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm nhỏ lẻ dựa trên hệ thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tổng số vốn Tiết kiệm bưu điện huy động được gần 30.000 tỷ đồng. Phần huy động này chủ yếu chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát triển. Năm 1911, hệ thống tiết kiệm Bưu điện Mỹ được thành lập mang tới cho người dân Mỹ nơi gửi tiền tiết kiệm và chuyển tiền an toàn và hiệu quả. Tiền tiết kiệm tại hệ thống lên tới 1,2 tỷ USD những năm 1930, tiếp tục tăng trong Thế chiến 2, đạt đỉnh năm 1947 với gần 3,4 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 1967 hệ thống bị đóng cửa vì bị coi là không cần thiết sau khi các ngân hàng tư nhân tăng lãi suất và cung cấp dịch vụ bảo đảm như hệ thống tiết kiệm bưu điện. Ngày nay, đối mặt với khủng hoảng tài chính, USPS có thể nhìn vào tấm gương của các ngân hàng bưu chính kiểu mẫu như Kiwi Bank và Japan Post Bank để tìm ra đường sống chính từ hệ thống mình từng loại bỏ. Quỹ hỗ trợ và phát triển Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (tín dụng chỉ định) cho các dự án. Quỹ này trực thuộc Bộ tài chính. Các quỹ đầu tư phát triển địa phương trực thuộc các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Các quỹ này có nhiệm vụ cho vay các dự án theo định hướng phát triển của từng địa phương. Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các địa phương hoạt động không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và không chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Tại Mỹ, các quỹ đầu tư chứng khoán đã có được một lịch sử hoạt động khá lâu đời. Hình thức tín thác đầu tư (đơn vị tín thác đầu tư UITs) là hình thức ban đầu của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Mỹ. Sau sự kiện TTCK sụp đổ vào năm 1929, quỹ công ty xuất hiện và được biết đến với tên gọi là các công ty quản lý (Management Company). Đây thực chất là một loại quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty đầu tư dạng mở (quỹ tương hỗ) và công ty đầu tư dạng đóng. Theo quy định của Mỹ, tất cả các quỹ đầu tư chứng khoán cho dù là một công ty quản lý hay là một quỹ tín thác đều phải lập Hội đồng quản trị và ít nhất 40% thành viên trong hội đồng phải là các thành viên độc lập không liên quan tới công ty quản lý quỹ. CÔNG CỤ TÀI CHÍNH Thị trường tiền tệ Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc Việt Nam Tín phiếu kho bạc: là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ. (tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành). Tín phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hay 9 tháng với một hay nhiều mức mệnh giá. Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản). Tín phiếu kho bạc Mỹ Tín phiếu Kho bạc Mỹ miễn các loại thuế cho tiểu bang và địa phương. Những chứng khoán không phải trả một lãi suất quan tâm và lợi ích thu được ước tính bằng cách lấy sự khác biệt giữa giá thanh toán và mệnh giá trái phiếu, và tính rằng tỷ lệ lợi nhuận trên cơ sở hàng năm. Tín phiếu kho bạc được coi là những chứng khoán an toàn nhất cho nhà đầu tư Hoa Kỳ. Tín phiếu kho bạc được phát hành bởi chính phủ Mỹ. Có ba loại kỳ hạn: 90, 180, và 360 ngày. Hai loại ngắn hơn được bán đấu giá trên cơ sở hàng tuần, trong khi các loại hàng năm được bán đấu giá hàng tháng. Tín phiếu kho bạc có thể được mua trực tiếp thông qua đấu giá hoặc gián tiếp thông qua thị trường thứ cấp. Nhận xét Giống nhau: tín phiếu kho bạc đều do chính phủ phát hành Khác nhau: tín phiếu kho bạc Hoa Kỳ có thể được mua trực tiếp, gián tiếp thông qua bán đấu giá. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi ở Việt Nam: là một loại giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành có thời hạn trên một năm với những đặc điểm tương tự như trái phiếu. Loại hình giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hành có thời hạn dưới một năm được gọi là kì phiếu. Chứng chỉ tiền gửi ở Mỹ (CD): Là một tiền gửi có kỳ hạn, một sản phẩm tài chính thường được cung cấp cho người tiêu dùng tại Hoa Kỳ bởi các ngân hàng, tổ chức tiết kiệm, và các công đoàn tín dụng. CD tương tự như tài khoản tiết kiệm ở chỗ chúng được bảo hiểm và do đó hầu như rủi ro tự do, họ là "tiền trong ngân hàng". CD được bảo hiểm bởi Công ty Cổ phần Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC). Nhận xét: CD được bảo hiểm bởi Công ty Cổ phần Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) cho các ngân hàng và tín dụng quốc gia Liên minh Quản trị (NCUA) cho công đoàn tín dụng. Thương phiếu Thương phiếu Việt Nam: Thương phiếu: là những phiếu hứa trả của các doanh nghiệp lớn và được bán cho doanh nghiệp khác, các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm xã hội hay ngân hàng. Mặc dù giá trị thương phiếu lưu hành nhỏ hơn 5% giá trị vay nợ ngân hàng, nhưng hình thức trả nợ này rất quan trọng đối với một số ngành kinh doanh. Hối phiếu có chính phủ chấp nhận: hiện loại hình này thực hiện trong các giao dịch ngoại thương. Thương phiếu Mỹ Thương phiếu đề cập đến kỳ phiếu ngắn hạn không có bảo đảm được ban hành bởi các tập đoàn tài chính và phi tài chính. Thương phiếu có kỳ hạn lên đến 270 ngày (tối đa cho phép mà không có yêu cầu SEC đăng ký). Khối lượng dollar thương phiếu vượt quá số tiền của bất kỳ công cụ thị trường tiền tệ khác. Nó thường được ban hành bởi các tập đoàn lớn, tín dụng với các đường dây không sử dụng tín dụng ngân hàng và do đó mang nguy cơ mặc định thấp. Không giống như một số loại khác của các công cụ thị trường tiền, trong đó các ngân hàng đóng vai trò là người trung gian giữa người mua và người bán, thương phiếu được phát hành trực tiếp bởi các công ty, cũng như của các tổ chức tài chính. Ngân hàng có thể hoạt động như đại lý giao dịch, nhưng họ cho rằng không có vị trí gốc và không có cách nào có nghĩa vụ hoàn trả thương phiếu. Các công ty cũng có thể bán thương phiếu thông qua các đại lý, có thu phí và sắp xếp cho việc chuyển giao các quỹ từ người cho vay cho khách hàng vay. Nhận xét: Hoạt động thương phiếu Hoa Kỳ có ngân hàng nhà nước làm trung gian giữa ngươi mua và người bán. Ngân hàng có thể hoạt động như đại lý giao dịch. Các công ty cũng có thể bán thương phiếu thông qua các đại lý, người có thu phí và sắp xếp cho việc chuyển giao các quỹ từ người cho vay cho khách hàng vay. Vay liên ngân hàng Việt Nam: là loại hình giao dịch rất phổ biến giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Các loại hình cho vay phổ biến gồm: cho vay qua đêm, cho vay kì hạn 3 tháng, 6 tháng. Mỹ Là một thị trường trong đó các ngân hàng mở rộng cho vay với nhau cho một thời hạn quy định. Hầu hết các khoản vay liên ngân hàng kỳ hạn một tuần hoặc ít hơn, phần lớn là qua đêm. Khoản vay được thực hiện theo tỷ giá liên ngân hàng (còn gọi là lãi suất qua đêm nếu thời hạn của khoản vay là qua đêm). Ngân hàng được yêu cầu phải tổ chức một số lượng đầy đủ tài sản lỏng, chẳng hạn như tiền mặt, quản lý chạy bất kỳ ngân hàng tiềm năng của khách hàng. Nếu một ngân hàng không thể đáp ứng các yêu cầu thanh khoản, nó sẽ cần phải vay tiền trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp sự thiếu hụt. Một số ngân hàng, mặt khác, có tài sản dư thừa chất lỏng ở trên và vượt ra ngoài các yêu cầu thanh khoản. Các ngân hàng sẽ cho vay tiền trên thị trường liên ngân hàng, nhận được sự quan tâm về tài sản. Thị trường cho vay liên ngân hàng đề cập đến các tập hợp con của ngân hàng giao dịch ngân hàng diễn ra trong thị trường tiền tệ. Chúng thường được phát hành trong đơn vị ít nhất một triệu người và có xu hướng có kỳ hạn ba tháng hoặc ít hơn. Kể từ khi thị trường thứ cấp hoạt động tồn tại cho gần như tất cả các công cụ thị trường tiền tệ, nhà đầu tư có thể bán cổ phần của họ trước khi đến ngày đáo hạn. Thị trường tiền tệ là một over-the-counter (OTC) thị trường. Các ngân hàng là những cầu thủ quan trọng trong một vài phân đoạn của thị trường tiền tệ. Để đáp ứng yêu cầu dự trữ và quản lý nhu cầu thanh khoản ngày ngày, các ngân hàng mua và bán các khoản vay ngắn hạn trong thị trường ngân sách liên bang. Đối với các khoản vay đáo hạn dài hơn, các ngân hàng có thể khai thác thị trường đồng đô la. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán ở Việt Nam Là giao dịch mua/bán lại chứng khoán có kỳ hạn được sử dụng trên thị trường tài chính. Đây là loại hình giao dịch mà nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu…) của chính mình trong một khoảng thời gian thỏa thuận nhất định với công ty chứng khoán. Hiểu một cách đơn giản, hợp đồng mua /bán lại chứng khoán là việc nhà đầu tư đi vay tiền và dùng chứng khoán để thế chấp. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán là nghiệp vụ phái sinh từ các nghiệp vụ cho vay có đảm bảo (hay nghiệp vụ cho vay cầm cố giấy tờ có giá, cho vay có bảo đảm bằng chứng khoán). Khi nhà đầu tư có nhu cầu về vốn trong thời gian nhất định, mà không muốn bán chứng khoán của mình, nhà đầu tư có thể ký hợp đồng mua bán có kỳ hạn với công ty chứng khoán, trong đó cam kết sẽ mua lại số lượng chứng khoán đã bán này từ công ty chứng khoán tại thời điểm xác định trong tương lai, với mức giá xác định trước tại thời điểm bán. Hiện nay, ở Việt Nam, hợp đồng mua lại chứng khoán là nghiệp vụ do công ty chứng khoán đưa ra để mua có kỳ hạn các loại cổ phiếu chưa niêm yết, chưa lên sàn, với các cổ phiếu đã niêm yết thì có dịch vụ cầm cố. Hợp đồng mua/bán lại chứng khoán ở Mỹ: được mua từ một đại lý với thỏa thuận rằng họ sẽ được bán trở lại vào một ngày trong tương lai với một mức giá cao hơn. Các thỏa thuận này là chất lỏng của tất cả các khoản đầu tư thị trường tiền tệ, khác nhau, từ 24 giờ đến vài tháng. Trong thực tế, tương tự như tài khoản tiền gửi ngân hàng, nhiều công ty sắp xếp cho các ngân hàng để chuyển tiền mặt dư thừa cho các quỹ như vậy tự động. Nhận xét: Thị trường tài chính Việt Nam mới chỉ bắt đầu hoạt động qua thị trường thứ cấp, trong khi đó Hoa Kỳ phát triển rất mạnh trong thị trường này. Euro-dollars: là nợ phải trả bằng đô la tiền gửi của các ngân hàng nằm bên ngoài Hoa Kỳ (hoặc các thiết bị ngân hàng quốc tế tại Hoa Kỳ). Các ngân hàng Mỹ có thể huy động vốn trên thị trường đồng đô la thông qua chi nhánh ở nước ngoài và các công ty con của họ. Một lựa chọn thứ hai là phát hành giấy chứng nhận thương lượng lớn tiền gửi (CDs). Đây là chứng chỉ do các ngân hàng trong đó nêu một số quy định của tiền đã được gửi cho một khoảng thời gian và sẽ được mua lại với lãi suất khi đáo hạn. Thỏa thuận mua lại (repos) là một nguồn tài trợ. Các Repos và Repos đảo ngược giao dịch trong đó người vay đồng ý bán chứng khoán với bên cho vay và sau đó mua lại chứng khoán giống nhau hoặc tương tự sau một thời gian xác định, ở một mức giá nhất định, và bao gồm cả lãi suất tại một tỷ lệ đã thỏa thuận. Repos được thế chấp hoặc bảo đảm khoản vay bằng trái ngược với các quỹ liên bang cho vay là không có bảo đảm. Thị trường vốn Trái phiếu Việt Nam Trái phiếu: là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh) Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Mỹ Trái phiếu (còn được gọi là tín dụng, thị trường thu nhập cố định) là một thị trường tài chính tham gia có thể phát hành trái phiếu mới, được gọi là thị trường sơ cấp , hoặc mua và bán chứng khoán nợ , được biết đến là thị trường thứ cấp , thường là trong các hình thức trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ Việt Nam: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất, trái phiếu Chính phủ thường được phát hành theo phương pháp đấu thầu. Mỹ: thường được gọi là trái phiếu rủi ro , bởi vì chính phủ có thể tăng thuế hoặc tạo ra các tiền tệ khác để mua lại các trái phiếu đến hạn ở Mỹ, chứng khoán kho bạc được bằng đô la Mỹ . Trong trường hợp này, thuật ngữ "rủi ro" có nghĩa là rủi ro tín dụng . Tuy nhiên, rủi ro vẫn còn tồn tại, chẳng hạn như rủi ro tiền tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ hai, là nguy cơ lạm phát , trong đó chủ yếu thanh toán vào ngày đáo hạn sẽ có sức mua thấp hơn dự đoán nếu tỉ lệ lạm phát cao hơn dự kiến. Nhận xét: Thị trường trái phiếu chính phủ mỹ có rủi ro tín dụng cao, rủi ro tiền tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài, nguy cơ lạm phát , trong đó chủ yếu thanh toán vào ngày đáo hạn sẽ có sức mua thấp hơn dự đoán nếu tỉ lệ lạm phát cao hơn dự kiến. Trái phiếu của doanh nghiệp Việt Nam Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, ngoài qui định phải có mức vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ trở lên và hoạt động kinh doanh của năm liền trước phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế như với phát hành cổ phiếu, công ty muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải đảm bảo không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. Thêm vào đó, công ty phải có thời gian hoạt động từ 1 năm trở lên và báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đảm bảo tính minh bạch và công khai về thông tin cho các nhà đầu tư. Qui trình phát hành trái phiếu phổ biến nhất được tiến hành thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Trong nghiệp vụ này, một hay nhiều công ty chứng khoán hoặc ngân hàng tập hợp với nhau thành các nhóm bảo lãnh phát hành, đứng ra mua lại toàn bộ trái phiếu phát hành từ người phát hành rồi bán lại cho nhà đầu tư. Trái phiếu đô thị: là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ một năm trở lên, do chính quyền địa phương ủy quyền cho kho bạc hoặc các pháp nhân do chính quyền địa phương lập ra, phát hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công trình mang tính công cộng như đường xá, bến cảng, trường học, bệnh viện,…Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy phát hành trái phiếu đô thị được xem là lựa chọn hiệu quả trong huy động vốn cho đầu tư. Thị trường trái phiếu đô thị hình thành và phát triển dựa trên những điều kiện cơ sở là: thị trường tài chính phát triển; cơ chế quản lý tài chính nhà nước được thực hiện theo hướng phi tập trung hóa, có sự chuyển giao quyền lực phân cấp đầu tư và vay nợ của chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương. Mỹ Trái phiếu đô thị là một trái phiếu do một thành phố Mỹ hoặc chính quyền địa phương, hoặc cơ quan của họ. Khả năng của tổ chức phát hành trái phiếu, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm các thành phố, quận, cơ quan tái phát triển, các huyện mục đích đặc biệt , khu vực trường học , quận, tiện ích công cộng, công khai sở hữu sân bay và cảng biển, và bất kỳ tổ chức khác của chính phủ (hoặc nhóm của các chính phủ) dưới mức nhà nước. Trái phiếu đô thị có thể là nghĩa vụ chung của tổ chức phát hành hoặc bảo đảm bằng các khoản thu quy định. Trái phiếu đô thị là chứng khoán được phát hành cho mục đích tài trợ cho nhu cầu cơ sở hạ tầng của thành phố phát hành. Những nhu cầu này khác nhau rất nhiều nhưng có thể bao gồm trường học, đường phố và đường cao tốc, cầu, bệnh viện, nhà ở công cộng, thoát nước và hệ thống nước, các tiện ích điện, và các dự án công cộng khác nhau. Một trong những lý do chính trái phiếu thành phố trực thuộc Trung ương đang xem xét một cách riêng biệt từ các loại trái phiếu khác là khả năng đặc biệt của họ để cung cấp thu nhập được miễn thuế. Lãi vay đã trả bởi các công ty phát hành cho chủ sở hữu trái phiếu thường được miễn tất cả các loại thuế liên bang, cũng như thuế tiểu bang hoặc địa phương tùy thuộc vào nhà nước mà trong đó người phát hành, hạn chế nhất định. Trái phiếu phát hành cho các mục đích nhất định chịu thuế tối thiểu thay thế. Các loại dự án, dự án được tài trợ bởi một trái phiếu ảnh hưởng đến tính cách có thể đánh thuế được thu nhập nhận được trên các trái phiếu được tổ chức do chủ sở hữu trái phiếu. Lãi thu nhập trên trái phiếu là các dự án quỹ được xây dựng vì lợi ích chung là thường được miễn thuế thu nhập liên bang, trong khi thu nhập lãi suất trái phiếu phát hành để tài trợ cho các dự án một phần hoặc toàn bộ lợi ích các bên tư nhân, đôi khi được gọi là trái phiếu hoạt động tư nhân , có thể bị thuế thu nhập liên bang. Tuy nhiên, trái phiếu đủ điều kiện hoạt động tư nhân, cho dù là do một đơn vị của Chính phủ hoặc tổ chức tư nhân, được miễn các loại thuế liên bang bởi vì trái phiếu là các dịch vụ tài chính hoặc các cơ sở, trong khi cuộc họp kiểm tra hoạt động tư nhân, là cần thiết bởi một chính phủ. Trái phiểu chuyển đổi Việt Nam Tính hấp dẫn của nó là ở chỗ nó cho phép nhà đầu tư chyển đổi sang cổ phiếu thường vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Do kì vọng này mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất rất thấp, giúp các công ty phát hành nhanh chóng huy động được một số vốn lớn với chi phí tài chính dễ chịu. Trái phiếu thường không được mua bán trên các sàn giao dịch tập trung mà chủ yếu qua thị trường OTC. Khi mua bán trái phiếu, nhà đầu tư thường không phải trả hoa hồng cho người môi giới như với cổ phiếu. Thay vào đó, người môi giới trái phiếu được hưởng phần chênh lệch giá bán/mua. Trái phiếu có thể do Chính phủ, các tổ chức tín dụng, các công ty hay tổ chức siêu quốc gia phát hành trên thị trường sơ cấp. Để tăng mức độ hấp dẫn của trái phiếu hoặc vì một mục đích nào đó trái phiếu hay được phát hành kèm với một số quyền khác. Khi kết hợp với một hợp đồng quyền chọn (mua hoặc bán) nó trở thành loại trái phiếu có khả năng yêu cầu thanh toán trước hạn. Yêu cầu thanh toán trước hạn có thể thuộc về người phát hành trái phiếu nếu đó là một trái phiếu có thể mua lại hoặc thuộc về người sở hữu trái phiếu nếu đó làm trái phiếu có khả năng bán lại. Trái phiếu được coi là một tài sản tài chính có mức độ an toàn cao. Rủi ro chủ yếu mà người nắm giữ trái phiếu phải chịu là về mặt lãi suất. giá cả phụ thuộc khá nhiều vào độ tin cậy tín dụng của người phát hành. Tính thanh khoản của trái phiếu phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của nhà phát hành. Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như chuẩn chung của thế giới, qui định về phát hành trái phiếu cũng chặt chẽ hơn phát hành cổ phiếu. Mỹ Là một loại trái phiếu mà người đó có thể chuyển đổi thành cổ phần của cổ phiếu phổ thông trong các công ty phát hành hoặc tiền mặt có giá trị như nhau, một mức giá đã thỏa thuận. Mặc dù nó thường có một phiếu giảm giá tỷ lệ thấp hơn so với nợ không chuyển đổi tương tự, dụng cụ mang giá trị gia tăng thông qua các tùy chọn để chuyển đổi trái phiếu chứng khoán, và do đó tham gia vào sự tăng trưởng hơn nữa trong giá trị vốn cổ phần của công ty. Các nhà đầu tư nhận được xu hướng tăng giá tiềm năng của chuyển đổi vốn chủ sở hữu trong khi bảo vệ nhược điểm với dòng tiền từ các khoản thanh toán phiếu giảm giá và trở về gốc khi đến hạn. Từ quan điểm của tổ chức phát hành, lợi ích quan trọng của việc nâng cao tiền bằng cách bán trái phiếu chuyển đổi là giảm lãi suất thanh toán bằng tiền mặt . Lợi thế cho các công ty phát hành trái phiếu chuyển đổi, nếu trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, công ty nợ biến mất. Tuy nhiên, trong trao đổi vì lợi ích của giảm lãi suất các khoản thanh toán, giá trị của vốn chủ sở hữu của cổ đông giảm do pha loãng cổ phiếu dự kiến khi sở hữu trái phiếu chuyển đổi của trái phiếu mới cổ phần . Một thị trường cổ phiếu hoặc thị trường chứng khoán là một thực thể công cộng (một mạng lưới lỏng lẻo của các giao dịch kinh tế, không phải một cơ sở vật lý hoặc thực thể rời rạc) cho kinh doanh của công ty chứng khoán (cổ phiếu) và các dẫn xuất với một mức giá đã thoả thuận, đây là những chứng khoán được liệt kê trên thị trường chứng khoán cũng như những người chỉ giao dịch tư nhân. Tham gia thị trường bao gồm các nhà đầu tư cá nhân bán lẻ, nhà đầu tư tổ chức như các quỹ tương hỗ, các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các quỹ phòng hộ, và Tổng công ty cũng công khai giao dịch kinh doanh cổ phiếu của chính mình. Một số nghiên cứu cho thấy nhà đầu tư tổ chức và các tập đoàn kinh doanh cổ phiếu của chính mình thường nhận được cao hơn nguy cơ điều chỉnh lợi nhuận hơn so với các nhà đầu tư bán lẻ Các thị trường chứng khoán là một trong những nguồn quan trọng nhất cho các công ty nâng cao tiền. Điều này cho phép doanh nghiệp được giao dịch công khai, hoặc tăng thêm vốn tài chính cho việc mở rộng bằng cách bán cổ phần của quyền sở hữu của công ty trong một thị trường công cộng. Các thanh khoản trao đổi dành cho các nhà đầu tư cung cấp cho họ khả năng để nhanh chóng và dễ dàng bán chứng khoán. Đây là một tính năng hấp dẫn của đầu tư vào cổ phiếu, so với khoản đầu tư khác ít chất lỏng như bất động sản . Một số công ty chủ động tăng tính thanh khoản bằng cách kinh doanh cổ phiếu của chính mình. Lịch sử đã chỉ ra rằng giá của cổ phiếu và tài sản khác là một phần quan trọng của sự năng động của hoạt động kinh tế, và có thể ảnh hưởng hoặc là một chỉ báo về tâm trạng xã hội. Một nền kinh tế thị trường chứng khoán đang tăng lên được coi là một nền kinh tế lên và sắp tới. Trong thực tế, thị trường chứng khoán thường được coi là chỉ số chính của sức mạnh phát triển kinh tế của một quốc gia. Trao đổi cũng hoạt động như các trung tâm thông tin cho mỗi giao dịch, có nghĩa là họ thu thập và cung cấp các cổ phiếu, và đảm bảo thanh toán cho người bán bảo mật.Điều này giúp loại bỏ nguy cơ cho một người mua cá nhân hoặc người bán mà các đối tác có thể mặc định trên giao dịch. CƠ SỞ HẠ TẦNG TÀI CHÍNH CSHT tài chính là tập hợp của các tổ chức cho phép hoạt động có hiệu quả của các trung gian tài chính. Nó bao gồm các yếu tố như hệ thống thanh toán, văn phòng thông tin tín dụng và đăng ký tài sản thế chấp. Nói rộng hơn, CSHT tài chính là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống làm nền tảng để các bên (tiết kiệm – cho vay; đi vay – đầu tư ) lập kế hoạch, đàm phán và thực hiện các giao dịch tài chính. CSHT tài chính giữ một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển và ổn định nền kinh tế của một nước. Nó cung cấp một cơ chế hiệu quả để đánh giá rủi ro, lợi nhuận đầu tư, giúp quản lý phân bổ rủi ro và phân bổ nguồn lực trên toàn nền kinh tế. Các văn phòng tín dụng giúp cung cấp các thông tin cần thiết với độ chính xác cao và phân tích rủi ro kịp thời, đặc biệt là đối với tín dụng tiêu dùng. Bên cạnh đó, hệ thống tài sản thế chấp cung cấp thông tin để cảnh báo đến người cho vay về sự tồn tại tiềm năng của lãi suất ưu tiên trong tài sản thế chấp và cung cấp cho các chủ nợ đã đăng ký bảo đảm sự ưu tiên của họ trong tài sản thế chấp, làm giảm rủi ro cho người cho vay và tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận tín dụng. Ngoài ra, hệ thống thanh toán, chuyển tiền và chứng khoán tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ tài chính và chuyển giao quỹ an toàn vượt qua khoảng cách giữa các tổ chức. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng tài chính của mỗi nước là không giống nhau.Thông qua 4 thành phần chính của CSHT là: hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước; nguồn lực và thông lệ giám sát; cung cấp thông tin và hệ thống thanh toán, chúng ta hãy thử làm một vài nhận xét sơ bộ về CSHT tài chính của Việt Nam và Mỹ. Hệ thống luật pháp và quản lý của Nhà nước Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là tương đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm. Dự kiến năm 2006 Luật chứng khoán sẽ ra đời (hiện tại văn bản cao nhất quy định về tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán là Nghị định của chính phủ). Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và thống nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự giám sát của Ngân hàng nhà nước như Quỹ Hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhìn chung hệ thống luật pháp của Mỹ là khá chặt chẽ, đầy đủ và ổn định với vô số các bộ Luật về tài chính. Điều này đã giúp cho hệ thống tài chính Mỹ hoạt động một cách liên tục và hiệu quả Nguồn lực và thông lệ giám sát Thị trường tài chính Việt Nam sau hơn hai thập kỷ cải cách tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro không thể xem thường trong khi công tác giám sát vĩ mô thị trường tài chính hiện còn không ít bất cập. Trên thực tế, việc giám sát chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính chưa hoàn thiện, nhất là giám sát dựa trên rủi ro. Giám sát rủi ro chéo với các thị trường tài sản như bất động sản, chứng khoán còn lỏng lẻo do thiếu sự phối hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ thị trường tài chính giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành. Do đó, việc củng cố và hoàn thiện hệ thống giám sát tài chính hợp nhất ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là cần xây dựng một bộ chỉ tiêu phục vụ cho việc giám sát hợp nhất thị trường tài chính dựa trên các tiêu chí giám sát tài chính hiện đại đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Cơ chế giám sát thực thi hệ thống tài chính của Mỹ tương đối chặt chẽ và thông minh. Nước này đã áp dụng, theo dõi và giám sát triệt để các tiêu chí giám sát tài chính như các chỉ tiêu an toàn vĩ mô, vi mô; chỉ tiêu thị trường chứng khoán, chỉ tiêu giám sát các định chế kinh doanh chứng khoán, chỉ tiêu giám sát các định chế bảo hiểm, các chỉ tiêu dự báo khủng hoảng tài chính…Chính những điều này đã giúp cho hệ thống tài chính Mỹ ngày một phát triển bền vững Cung cấp thông tin Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tín cậy. Hiện trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy nhiên để trở thành một tổ chức có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải làm. Các tổ chức thông tin tín dụng ở Mỹ như Equifax, Experian, TransUnion đang ngày một phát triển và hoạt động hiệu quả Hệ thống thanh toán Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây dựng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi tất cả các ngân hàng xây dựng xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam là đảm bảo. Hệ thống thanh toán ở Mỹ rất đa dạng. Hầu hết các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mai đều áp dụng hệ thống thanh toán tập trung. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng ở Mỹ phát triển khá rầm rộ. Mới đây, hệ thống thanh toán của Mỹ đã hợp tác với ControlScan (một nhà cung cấp hàng đầu của ngành công nghiệp thẻ thanh toán PCI) để tập trung chủ yếu vào khách hàng là những thương gia với những tiện ích đặc sắc và độ bảo mật cao khi họ sử dụng hệ thống thanh toán này PHẦN KẾT LUẬN Từ việc so sánh hệ thống tài chính của Mỹ và Việt Nam, chúng ta rút ra kết luận: hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng vì tạo ra các kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn đến người thiếu vốn, cung cấp các dịch vụ tài chính như: chia sẻ rủi ro, tính lỏng, thông tin các giao dịch tài chính nên Chính phủ nên sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ. Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng và đa dạng các hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính nhằm khai thông vốn trong nước, thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng,…để nâng cao chất lượng tín dụng. Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là hệ thống ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây ra bất ổn trong thị trường tài chính. Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu. Cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Sự can thiệp của Chính Phủ nên mang tính linh động TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT Nhập môn tài chính – tiền tệ, Nxb Lao động xã hội – năm 2008. Các bài báo trong www.vneconomy.com.vn Các bài báo trong www.vnexpress.net Các bài nghiên cứu và số liệu trong website của NHNNVN Các bài viết của TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Th.s. Nguyễn Lĩnh Nam, Th.s. Vũ Thị Ngọc Liên thuộc NHNN TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH Frederic S. Mishklin, The Economics of money, banking and financial markets www.bis.org www.imf.org www.federalreserve.gov O SÁNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM VÀ MỸ GVHD: TS. BÙI THỊ MAI HOÀI Trang 47