Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                

De cuong NCKH

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 1.1 Một số vấn đề lý luận về năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 1.2 Thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Chương 2 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰCHO HỌC VIÊN SAU ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 2.1 Định hướng bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 2.2 Một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. KẾT LUẬN PHỤ LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Những năm qua, mặc dù khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã “nghiên cứu, giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc đặt ra; góp phần vào việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị” Lê Văn Dũng, Phát huy vai trò lực lượng trí thức quân đội trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5 - 2009, tr. 4.; đồng thời có nhiều đóng góp rất hiệu quả vào sự phát triển của khoa học quân sự cũng như khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, chúng ta vừa đứng trước những điều kiện thuận lợi, vừa đứng trước những khó khăn, thách thức mới, nhất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tình hình mới đòi hỏi phải xem xét, đánh giá thực trạng chiến lược phát triển khoa học công nghệ đất nước, trong đó khoa học xã hội và nhân văn quân sự làm nền tảng cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời trang bị vũ khí đấu tranh tư tưởng, lý luận cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân để chủ động phòng ngừa và tiến công địch trên mặt trận này. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay phải được coi trọng hơn. Hơn nữa, để kịp thời cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược quân sự, quốc phòng, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đòi hỏi phải chú trọng đến bồi dưỡng, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Hiện nay, tuy quy mô nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã được mở rộng nhưng chất lượng, hiệu quả, nhất là bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự chưa đáp ứng yêu cầu. Không chỉ có vậy, khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn bị lạc hậu cục bộ so với một số lĩnh vực khoa học khác nhưng chậm khắc phục. Sự trùng lặp, kém hiệu quả trong nghiên cứu do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân cơ bản như: hạn chế về lý luận cơ bản, công tác quản lý chậm đổi mới và thiếu phương pháp nghiên cứu đặc thù của lĩnh vực khoa học này. Trường sĩ quan Chính trị là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị cho toàn quân, những năm qua Nhà trường đã có nhiều đổi mới trong công tác giáo dục, đào tạo, đã chú trọng hơn đến việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên. Chính vì vậy Nhà trường đã đào tạo được một đội ngũ sĩ quan sau khi tốt nghiệp ra trường có tri thức vừa toàn diện vừa chuyên sâu trong tất cả các lĩnh vực của hoạt động quân sự, biết vận dụng tri thức vào phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình quản lý, chỉ huy, giáo dục, huấn luyện đơn vị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới hiện nay. Hệ 5 – Trường Sĩ quan Chính trị được thành lập ngày 20 tháng 03 năm 2015 theo quyết định của Bộ quốc phòng, có nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ các chuyên ngành Triết học, Xây dựng Đảng và Chủ nghĩa xã hội. Việc thành lập Hệ 5 đã làm cho nhiệm vụ giáo dục đào tạo của Nhà trường có bước phát triển mới, học viên đào tạo sau đại học được tuyển chọn từ các đơn vị trong toàn quân, trải qua 1 năm học dự khóa và trúng tuyển vào trường để học tập, công tác. Cường độ học tập cao, chủ yếu là học các môn lý luận và nghiên cứu trong đó việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự là một nhiệm vụ quan trọng đối với người học để củng cố, nâng cao kiến thức đồng thời tạo ra những công trình khoa học có hiệu quả cao góp phần vào xây dựng đơn vị, nhà trường và quân đội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên còn bộc lộ không ít những hạn chế, thiếu sót cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Một số đồng chí chưa thật sự coi trọng nghiên cứu khoa học, hoặc nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này. Công tác bảo đảm cơ sở vật chất, tài liệu cho học tập và nghiên cứu còn hạn chế; chưa tạo được môi trường thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của người học. Vì vậy dẫn đến tư tưởng thiếu tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu, chưa chú trọng rèn luyện phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. Việc triển khai nghiên cứu đề tài: “Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” chính là góp phần “Phát triển nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nâng cao năng lực xây dựng quân đội về chính trị, xây dựng con người mới trong quân đội” Đảng bộ Quân đội, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, Hà Nội - 2001, tr. 3.. Với ý nghĩa đó, vấn đề nghiên cứu có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn xây dựng đơn vị, Nhà trường và quân đội hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự là một bộ phận của khoa học xã hội và nhân văn do tính đặc thù của hoạt động quân sự quy định. Lịch sử hình thành và phát triển của khoa học xã hội và nhân văn quân sự Việt Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động quân sự, quốc phòng, hoạt động chuẩn bị và tiến hành chiến tranh nhân dân, xây dựng dựng lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng Quân đội nhân dân. Trong thực tiễn, hoạt động của khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã có từ rất sớm, phôi thai ngay từ những năm đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và từng bước phát triển cùng với cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đến nay đã hình thành, phát triển khá đầy đủ các yếu tố cấu thành khoa học xã hội và nhân văn quân sự với tư cách một lĩnh vực khoa học độc lập. Tuy hình thành muộn hơn so với nhiều khoa học khác nhưng khoa học xã hội và nhân văn quân sự Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh và sớm khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xây dựng và phát triển khoa học công nghệ quân sự, đặc biệt trong đời sống quân nhân, hoạt động quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy, đến nay nhận thức về khoa học xã hội và nhân văn quân sự vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, không có khoa học xã hội và nhân văn quân sự mà chỉ có những vấn đề khoa học xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; đó là sự vận dụng khoa học xã hội và nhân văn vào lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Hoặc có ý kiến cho rằng, khoa học xã hội và nhân văn quân sự chỉ là một bộ phận của khoa học quân sự, không phải là một lĩnh vực khoa học độc lập. Vì vậy, khi phân loại, người ta xếp một số chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn quân sự vào khoa học quân sự. Nói chung, các ý kiến đó chưa thừa nhận có khoa học xã hội và nhân văn quân sự như một lĩnh vực khoa học độc lập. Những công trình nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã được công bố mới chỉ đề cập tới một số nội dung cụ thể về từng lĩnh vực hoạt động của nó như: nâng cao chất lượng đề tài, nghiên cứu thực tế, tọa đàm khoa học… về khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Với những nhận thức về khoa học xã hội và nhân văn quân sự như vậy, có thể nói, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về khoa học xã hội và nhân văn quân sự, chưa có sự hiểu biết chính xác về lĩnh vực khoa học này để khẳng định và được thừa nhận là một khoa học. Lần đầu tiên khoa học xã hội và nhân văn quân sự được nhắc đến trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII nhưng chỉ với tính cách là một thuật ngữ. Những năm gần đây, xuất phát từ những đóng góp thiết thực, có hiệu quả của một lĩnh vực khoa học chưa rõ tính danh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, nên đã có những công trình nghiên cứu nhằm từng bước nhận diện và khẳng định vai trò của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Số lượng các công trình nghiên cứu về lĩnh vực khoa học này tuy chưa nhiều, quy mô còn nhỏ, nhưng bước đầu đã góp phần khắc phục những nhận thức không đúng về lĩnh vực khoa học này. Một số công trình khoa học đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến khoa học xã hội và nhân văn cũng như khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã được công bố dưới dạng sách hoặc những sản phẩm khác. Trong đó có: Nguyễn Khánh Toàn, Khoa học xã hội và nhân văn - Tuyển tập, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1999; Phạm Tất Dong, Khoa học xã hội và nhân văn - Mười năm đổi mới và phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997; Hoàng Chí Bảo, Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2008; Đảng bộ Quân đội, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội - 2001; Trần Xuân Trường (chủ nhiệm đề tài): Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Nguyễn Tuấn Dũng (chủ nhiệm đề tài): Dự báo tiềm lực chính trị tinh thần nhân dân và sức mạnh chính trị tinh thần quân đội đến năm 2010... Và một số công trình do Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự thực hiện, điển hình như: Khoa học xã hội và nhân văn quân sự với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội - 2002; Nâng cao chất lượng đề tài khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội - 2003; Từ điển công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội - 2007; Nghiên cứu thực tế của khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội - 2007. Ngoài ra còn có hệ thống giáo trình của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn trong hệ thống nhà trường quân đội đã được biên soạn, xuất bản với số lượng lớn, chất lượng ngày càng cao, cung cấp những đơn vị kiến thức nền tảng, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên môn kỹ thuật với các bậc học từ trung học, cao đẳng, đại học đến sau đại học. Riêng Học viện chính trị đã biên soạn, xuất bản được 105 bộ giáo trình giai đoạn 1994 đến 2010, trong đó có 83 bộ giáo trình được biên soạn, xuất bản giai đoạn 2000 - 2010. Ngoài các công trình đã dẫn, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về năng lực hoặc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên từ góc độ khoa học luận. Do vậy, vấn đề “Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay” mà Ban đề tài lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu của đề tài. * Mục tiêu: Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. * Nội dung: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. - Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân. - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự ở Nhà trường; thời gian 5 năm trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu. - Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn, khoa học xã hội và nhân văn quân sự. - Cơ sở thực tiễn: Những tài liệu, số liệu thống kê, tổng kết về hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự có liên quan đến đề tài thông qua hệ thống báo cáo hàng năm, thông tin tư liệu tại thư viện trường Sĩ quan Chính trị; mạng Internet, tọa đàm khoa học… Các thống kê điều tra xã hội học của Ban đề tài qua “Phiếu trưng cầu ý kiến” ở một số, đơn vị trong Nhà trường . - Phương pháp nghiên cứu: + Ban đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn, trong đó chú trọng kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; các phương pháp phân tích, tổng hợp; nghiên cứu phân tích tài liệu, tổng kết thực tiễn; phương pháp so sánh và phương pháp chuyên gia. + Đồng thời sử dụng các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu về khoa học xã hội nói chung, khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng đã được công bố liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, từ đó góp phần phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, trong nghiên cứu và vận dụng vào công tác giáo dục, đào tạo của Nhà trường. 7 Cấu trúc của đề tài: Bao gồm: phần mở đầu, 2 Chương với 4 tiết, kết luận; phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 1.1. Một số vấn đề lý luận về năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 1.1.1. Quan niệm về khoa học xã hội và nhân văn quân sự và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. - Quan niệm về khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Mặc dù từ lâu nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu, tìm hiểu về đời sống xã hội con người nhưng đến nửa đầu thế kỷ XIX công việc đó vẫn trong tình trạng bế tắc. Bước ngoặt cách mạng của lĩnh vực khoa học ấy chỉ thực sự bắt đầu sau những phát kiến khoa học vĩ đại của C.Mác là Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Học thuyết giá trị thặng dư. Chủ nghĩa Mác ra đời đã cung cấp cho nhân loại công cụ nhận thức sắc bén để nhận thức và cải tạo đời sống xã hội bằng cách mạng. Khẳng định vai trò của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng, Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản: “Chủ nghĩa xã hội, từ khi nó đã trở thành một khoa học, đòi hỏi người ta phải đối xử với nó như là một môn khoa học, nghĩa là phải nghiên cứu nó. Nhận thức đã có được bằng cách đó, cần phải được phổ biến trong quần chúng công nhân với một nhiệt tình ngày càng tăng, và tổ chức đảng và tổ chức của các công đoàn ngày càng phải được củng cố vững chắc hơn nữa” C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1995, Tập 19, tr. 699 - 700.. Cả lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam những năm qua đã cho thấy sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, vai trò to lớn của khoa học xã hội và nhân văn trong định hướng sự phát triển của đời sống xã hội. Khoa học nghiên cứu về đời sống xã hội từ lâu đã có tên gọi là khoa học xã hội: “Khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu về các quy luật hình thành, phát triển của xã hội và con người như: Chính trị học, Văn học, Luật học, Ngôn ngữ…” Đại Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội - 1998, tr. 907.. Cùng với sự phát triển của nhận thức, khoa học xã hội còn có tên gọi khác là khoa học xã hội và nhân văn. Đó còn là sự mở đầu cho sự ra đời của một lĩnh vực khoa học mới, khoa học nghiên cứu về Nhân học ở Việt Nam Phạm Tất Dong, Khoa học xã hội và nhân văn mười năm đổi mới và phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997, tr. 278.. Khoa học xã hội và nhân văn là một khoa học liên ngành, gồm nhiều chuyên ngành khoa học cụ thể nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và con người. Trong định hướng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn, con người được chú ý đi sâu nghiên cứu, đặt vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: “Khoa học xã hội và nhân văn hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới của Việt Nam” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001, tr. 112.. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định việc phát triển khoa học xã hội và nhân văn nhằm: “…tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá; những nguyên tắc, nội dung cơ bản của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; phát triển con người; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới,… Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận…” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2006, tr. 98 - 99.. Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận của thiết chế Nhà nước, công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ Đảng, Tổ quốc và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, tổ chức biên chế, hoạt động quân sự và con người trong quân đội trở thành khách thể nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Quá trình hình thành, phát triển khoa học xã hội và nhân văn quân sự có mối quan hệ chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng trưởng thành của quân đội. Cả lý luận và thực tiễn những năm qua đều khẳng định sự tồn tại khách quan của khoa học xã hội và nhân văn quân sự, cũng như vị thế của nó trong khoa học xã hội và nhân văn nói chung. Hệ thống tri thức của khoa học xã hội và nhân văn quân sự là sự phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật, các thuộc tính, đặc điểm, quá trình vận động của các quan hệ, hoạt động xã hội và giá trị nhân văn trong lĩnh vực quân sự và đời sống quân nhân. Kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mang lại sẽ góp phần tạo ra những tiền đề lý luận để các chủ thể sử dụng tác động một cách chủ động vào hệ thống tổ chức và con người nhằm nâng cao tính tự giác, lòng trung thành, bản lĩnh chính trị, niềm tin vào thắng lợi của cách mạng nước ta, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quân sự. Từ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đến nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự là một bước phát triển của khoa học xã hội và nhân văn cũng như khoa học quân sự trong quá trình phát triển của khoa học công nghệ nước ta. Đó là quá trình vận động theo hai xu hướng vừa phân lập, vừa tích hợp tri thức khoa học. Sự hình thành, phát triển của khoa học xã hội và nhân văn quân sự không nằm ngoài quy luật chung đó. Một mặt, từ khoa học xã hội và nhân văn nói chung, các chuyên ngành cơ bản như: triết học, kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tâm lý học, xã hội học, văn hóa học, đạo đức học, mỹ học,… được vận dụng vào nghiên cứu một lĩnh vực xã hội đặc thù quân sự. Mặt khác, xem xét khoa học xã hội và nhân văn quân sự với tư cách là một ngành của khoa học quân sự Từ điển Công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2007, tr. 304 - 305. (bao gồm: khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự…) nghiên cứu những vấn đề xã hội và con người trong quân đội và hoạt động quân sự là khách thể nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự nghiên cứu bản chất, quy luật và tính quy luật về về chính trị, xã hội của các hoạt động xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân; góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng hoạch định đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Nó trực tiếp nghiên cứu việc chuẩn bị về mặt chính trị tinh thần cho đất nước và lực lượng vũ trang để tiến hành chiến tranh nhân dân; nghiên cứu bản chất chính trị, xã hội của chiến tranh và quân đội; quan hệ giữa chiến tranh với kinh tế, chính trị, văn hóa; xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần của nền quốc phòng toàn dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị; mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, v.v… Khoa học xã hội và nhân văn quân sự có các bộ môn khoa học: Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội; kinh tế quân sự; công tác đảng, công tác chính trị; tâm lý học quân sự; giáo dục học quân sự; đạo đức học quân sự; văn hóa học quân sự; xã hội học quân sự… Gắn trực tiếp với chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng và Nhà nước là một đặc trưng cơ bản của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Lực lượng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong quân đội bao gồm các tổ chức, các nhà khoa học tại các trung tâm nghiên cứu, hệ thống nhà trường quân đội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Phương pháp nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận Mác - Lênin, cùng các phương pháp liên ngành, chuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Như vậy, khi đem đối chiếu với những tiêu chí cơ bản của một khoa học, khoa học xã hội và nhân văn quân sự là một khoa học tồn tại độc lập. Qua đó, có thể đưa ra khái niệm: Khoa học xã hội và nhân văn quân sự Việt Nam là một khoa học nghiên cứu về xã hội và con người trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, góp phần giải đáp những vấn đề lý luận mà thực tiễn quân sự, quốc phòng đặt ra. - Quan niệm về nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự: Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động trí tuệ đặc biệt phức tạp của con người. Đó là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị và ứng dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới trong hiện thực. Nghiên cứu khoa học là một quá trình hoạt động, lao động trí tuệ khó khăn, phức tạp, đầy mâu thuẫn trong quá trình khám phá tri thức mới, chân lý khách quan, đòi hỏi nhà khoa học phải đưa ra được hệ thống lý thuyết của mình trên cơ sở những luận cứ, luận chứng khoa học. Chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học là cá nhân, tập thể nhà khoa học. Họ lấy thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người làm khách thể, đối tượng của hoạt động nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của khoa học, nhiều lĩnh vực mới ra đời, các đối tượng được phân chia theo từng lĩnh vực nghiên cứu ngày càng sâu sắc. Nghiên cứu khoa học được tổ chức thực hiện trong một quá trình lao động trí tuệ để tìm hiểu cái mới, phát hiện bản chất, quy luật, dự báo và xây dựng hệ thống quan điểm, lý thuyết của mình về vấn đề nghiên cứu trên cơ sở những luận cứ, luận chứng khoa học. Do đó, quá trình nghiên cứu không phải lúc nào cũng thuận lợi, thành công, trái lại phải lường trước khó khăn, thậm chí cả thất bại để sẵn sàng vượt qua. Hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự không ngừng sáng tạo những tri thức mới để giải đáp những vấn đề lý luận mà thực tiễn xây dựng quân đội, bồi dưỡng nhân tố chính trị tinh thần con người trong hoạt động quân sự, góp phần xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng trong quân đội ngày càng vững mạnh, thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo đó, có thể đưa ra khái niệm: Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự là hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị, chính sách của Đảng, Nhà nước; góp phần đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. 1.1.2. Đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức, chủ thể, đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Về đặc điểm, khoa học xã hội và nhân văn quân sự là một khoa học xã hội và nhân văn đặc thù trong quân đội, đi sâu nghiên cứu mặt xã hội và con người trong lực lượng vũ trang, nòng cốt là quân đội và hoạt động của nó nhằm tăng cường sức mạnh nguồn lực con người bởi sự giác ngộ cách mạng, lấy tính tổ chức, tính kỷ luật làm cơ sở để liên kết chặt chẽ các thành viên trong đơn vị, giữa các đơn vị, có khả năng giải quyết thắng lợi các nhiệm vụ quân sự, chính trị được giao. Theo GS, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý: “Khoa học xã hội và nhân văn nước ta có nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản và toàn diện về xã hội và con người Việt Nam, đi sâu vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn sinh động của đất nước, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoặc đang phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khoa học xã hội và nhân văn phải góp phần tích cực vào nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh. Trên cơ sở xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội” Nguyễn Duy Quý, Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, và giáo dục, đào tạo ở Học viện Chính trị quân sự, Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị quân sự, số 5 - 2001, tr. 21.. Quân đội là một tổ chức trong thiết chế Nhà nước, hoạt động quân sự là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của đời sống xã hội. Các tổ chức, hoạt động quân sự và đời sống quân nhân là khách thể nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Tính đặc thù của tổ chức quân đội; hoạt động quân sự và đời sống tinh thần quân nhân là cơ sở khách quan quy định tính đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự so với khoa học xã hội và nhân văn, cũng như khoa học quân sự nói chung. Nếu lý luận chung trang bị tri thức sâu sắc mang tính định hướng chỉ đạo hoạt động thì tri thức về khách thể mang tính đặc thù sẽ cung cấp tri thức phong phú, sâu sắc trực tiếp hướng dẫn hoạt động của con người trong lĩnh vực hoạt động đó. Sự ra đời của khoa học xã hội và nhân văn quân sự đánh dấu bước phát triển mới của khoa học quân sự Việt Nam cũng như khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam nói chung. Điều đặc biệt chú ý là phải nắm vững đặc điểm cơ bản của khoa học xã hội và nhân văn quân sự thuộc kiến trúc thượng tầng - ý thức chính trị phản ánh tập trung tính giai cấp sâu sắc trong cơ cấu tổ chức, chức năng hoạt động, bản chất của lĩnh vực quân sự, quốc phòng, quân đội. Bản chất giai cấp công nhân là cơ sở giữ vững định hướng chính trị trong mọi hoạt động nghiên cứu của lĩnh vực khoa học đặc thù này. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn là một khoa học đa ngành. Trong nó bao hàm nhiều chuyên ngành khoa học độc lập được liên kết lại để thực hiện nghiên cứu các mặt khác nhau của hoạt động quân sự và đời sống tinh thần con người hoạt động trong lĩnh vực: Chiến lược quân sự; Lịch sử quân sự; Đối ngoại quân sự; Học thuyết về chiến tranh, cách mạng, bảo vệ Tổ quốc; Công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng quân đội về chính trị; Tâm lý học quân sự; Xã hội học quân sự; Văn hóa học quân sự; Đạo đức học quân sự; Kinh tế học quân sự; Luật pháp; kỷ luật quân sự;... Về vai trò, kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước trong xác định các chủ trương, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, khu vực phòng thủ vững chắc trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau, góp phần xây dựng quân đội theo định hướng chính trị của Đảng, gắn với thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bám sát với thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội qua các thời kỳ. Các sản phẩm đa dạng, phong phú của khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn có tính dự báo nhiều vấn đề chiến lược góp phần chủ động giải quyết những vấn đề quân sự, quốc phòng và xây dựng lực lượng đảm bảo nâng cao sức mạnh nhân tố con người trong các cuộc chiến tranh hiện đại. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự luận cứ khoa học xác lập vững chắc sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có kỷ luật nghiêm minh, tự giác, xây dựng tình đoàn kết chiến đấu gắn bó keo sơn giữa quân đội và nhân dân trong bảo vệ và xây dựng đất nước và cuộc sống hàng ngày. Qua đó, khoa học xã hội và nhân văn quân sự góp phần tích cực vào xây dựng quân đội ta trở thành một quân đội nhân dân, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Quân đội thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ Tổ quốc. Về nội dung nghiên cứu, cũng như mọi lĩnh vực khoa học khác, khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong quân đội ta có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, phản ánh sâu sắc những vấn đề thuộc về bản chất, quy luật, đặc tính của các hiện tượng xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự, tạo ra những tiền đề lý luận để chủ động tác động vào hệ thống tổ chức và con người trong quân đội nhằm nâng cao tính tự giác của chủ thể hoạt động quân sự. Mục đích nghiên cứu nhằm phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và không ngừng nâng cao đời sống tinh thần, phát triển nhân tố con người, hoàn thiện nhân cách quân nhân, nhân lên sức mạnh tinh thần khắc phục khó khăn vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ quân đội; giải quyết đồng thời các nội dung chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội theo hướng xây dựng con người quân nhân cách mạng kiểu mẫu. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ VII đã chỉ rõ: “Phát triển nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nâng cao năng lực xây dựng quân đội về chính trị, xây dựng con người mới trong quân đội” Đảng bộ Quân đội, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VII, Hà Nội - 2001.. Theo đó, khoa học xã hội và nhân văn quân sự với tư cách là một khoa học đặc thù, khoa học liên ngành nghiên cứu về hoạt động quân sự và con người quân nhân cách mạng. Đó là một lĩnh vực khoa học xã hội đặc thù lấy hoạt động quân sự và đời sống tinh thần của con người trong quân đội làm khách thể nghiên cứu và kết quả mang lại là hệ thống tri thức khoa học dưới các cấp độ, các dạng thức khác nhau được thể hiện trong các công trình nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, thể chế xã hội, quan hệ xã hội, giá trị xã hội và hoạt động của nó. Khi nói khoa học nhân văn là nhằm nhấn mạnh hoạt động nghiên cứu đời sống xã hội đi sâu nghiên cứu về con người với những nhu cầu, lợi ích, sở thích, nguyện vọng, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,… của họ. Điều đó cho thấy khi nghiên cứu về hoạt động xã hội và con người trên lĩnh vực quân sự cần chỉ rõ hai nội dung cơ bản là khoa học xã hội và khoa học nhân văn trong tên gọi thống nhất là khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Cùng với sự phát triển của quân đội, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng gia tăng tạo cơ sở hiện thực, nhu cầu khách quan mở rộng khách thể, đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Theo đó, các điều kiện bảo đảm về con người và phương tiện, cơ sở vật chất, tài chính, tài liệu bảo đảm cho hoạt động nghiên cứu cũng có điều kiện tăng lên. Về hình thức, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự tuỳ theo cấp độ, nội dung nghiên cứu khác nhau, sẽ có những hình thức nghiên cứu phù hợp. Theo loại hình nghiên cứu, có các hình thức: Nghiên cứu cơ bản nhằm sáng tạo những tri thức mới, những giá trị mới làm nền tảng cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng; nghiên cứu ứng dụng, triển khai kết quả nghiên cứu vào hoạt động tuyên truyền, giáo dục, xây dựng quân đội về chính trị, nâng cao nhận thức, giác ngộ, lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ; nghiên cứu dự báo nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định những vấn đề chiến lược quân sự, hoạch định đường lối, chính sách, triển vọng của hoạt động xây dựng trận địa tư tưởng của quân đội trong điều kiện của cuộc chiến tranh tương lai. Theo cấp quản lý công trình nghiên cứu gồm: cấp Nhà nước; cấp Bộ; cấp ngành; cấp cơ sở. Chủ thể nghiên cứu, trên cơ sở biên chế, tổ chức đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự ở các cơ quan, đơn vị, hệ thống nhà quân đội là lực lượng nòng cốt nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tùy theo quy mô, tính chất của nhiệm vụ nghiên cứu mà cán bộ nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khác nhau sẽ được tập hợp lại để cùng triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cụ thể được giao góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự nghiên cứu theo liên ngành hoặc chuyên ngành về các mặt chính trị tinh thần, xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự và hoạt động quân sự với khách thể nghiên cứu là tổ chức và con người trong các hoạt động quân sự. Đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự, một mặt cần làm rõ phương thức tồn tại, trao đổi hoạt động và các mối quan hệ giữa các thành viên trong quân đội, giữa quân đội với Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và nhân dân, giữa quân đội ta với quân đội và nhân dân các nước. Mặt khác, cần làm rõ thực chất nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự là con người - quân nhân cách mạng với mục đích nhằm phát huy cao nhất vai trò nguồn lực con người - quân nhân, vừa là mục tiêu vừa là động lực trong xây dựng quân đội ngày càng trưởng thành, lớn mạnh. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự đi sâu nghiên cứu cơ sở xây dựng nhân tố chính trị tinh thần qua các thời kỳ, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân về chính trị với các mặt công tác cơ bản: tuyên huấn, tổ chức, cán bộ, bảo vệ, dân vận, công tác quần chúng,… Từ sau ngày đất nước thống nhất, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều chuyên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã được thành lập như: Tâm lý học quân sự, Xã hội học quân sự, Văn hóa học quân sự, Đạo đức học quân sự,… 1.1.3. Khái niệm bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. * Nghiên cứu khoa học và năng lực nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người; giúp con người nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời thông qua hoạt động đó, làm cho tư duy của con người ngày càng phát triển. Trong tác phẩm "Bút ký triết học", V. I. Lênin viết: "Thế giới không thoả mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình"[12, tr. 229]. Trong tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc", C. Mác đã khẳng định: "Đời sống xã hội về thực chất là có tính thực tiễn"[15, tr. 11]. Chính thông qua thực tiễn mà con người đã "nhân đôi" thế giới trong hiện thực và cũng nhân đôi chính mình trong thế giới tinh thần. Nhờ có thực tiễn mà tri thức của con người không ngừng phát triển, không có cái gì trong thế giới mà con người không biết, chỉ có những cái con người chưa biết mà thôi. Như vậy, hoạt động thực tiễn, trong đó có nghiên cứu khoa học, là con đường phát triển vô tận của nhận thức con người. Khoa học, trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Khoa học với tư cách là một danh từ, dùng để chỉ một hệ thống tri thức phản ánh đúng đắn quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, giúp con người có khả năng vận dụng để cải tạo hiện thực. Với tư cách là một tính từ, khoa học chỉ tính chất nhận thức và hành động của con người phù hợp với những đòi hỏi của khoa học (khách quan, chính xác, có hệ thống...) để nhận thức và hành động của họ phù hợp với chân lý khách quan, với thực tiễn cuộc sống, có khả năng cải tạo hiện thực hiệu quả nhất. Nghiên cứu, được hiểu là "xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay rút ra những hiểu biết mới" [29, tr. 658]. Với quan niệm như vậy, ta thấy, nghiên cứu khoa học là lĩnh vực lao động nhằm sáng tạo ra tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó là quá trình các nhà khoa học, cơ quan khoa học, với những tri thức, năng lực, trình độ và kinh nghiệm của họ, với sự phân công và hợp tác lao động khoa học, những trang bị thực nghiệm, thí nghiệm, phương pháp... nhằm tạo ra hệ thống tri thức mới phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Bản chất nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người. Nghiên cứu khoa học là một quá trình diễn ra phức tạp, không ngừng giải quyết những mâu thuẫn của sự tìm tòi, phát hiện những tri thức mới, khám phá những nguyên lý, quy luật, con đường mới mẻ của sự phát triển. Quá trình đó luôn xuất hiện những giả thuyết, những ý tưởng, những xu hướng, dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thành công của nghiên cứu khoa học là ở chỗ tìm ra tri thức mới phù hợp với sự phát triển của hiện thực, đem lại lợi ích cho con người. Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người. Kết quả đạt được của hoạt động nghiên cứu khoa học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nghiên cứu của con người. Năng lực nghiên cứu khoa học tồn tại dưới hai dạng: dạng tiềm năng và dạng năng lực hiện hữu. Dạng tiềm năng là nguồn vô tận của con người chưa được đánh thức, còn dạng năng lực hiện hữu là khả năng hiện có của con người để tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt, là: "Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; "là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao"[2, tr. 639]. Năng lực con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội... vì vậy nó không những do hoạt động của bộ não người, mà còn do trình độ phát triển lịch sử xã hội quy định. Theo ý nghĩa đó, năng lực nói chung và năng lực nghiên cứu khoa học nói riêng của con người luôn gắn liền và không tách rời với tổ chức lao động xã hội cùng với hệ thống giáo dục tương ứng với tổ chức đó. Năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng và điều kiện bên trong của con người để họ tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả. Năng lực nghiên cứu khoa học là kết quả của sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, như trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người. Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người được sử dụng trong việc phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người . Các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học là một thể thống nhất, tác động biện chứng lẫn nhau, song mỗi yếu tố có cấu trúc, vị trí vai trò riêng của nó. * Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học. Bồi dưỡng, theo từ điển tiếng việt là quá trình làm tăng thêm trình độ, năng lực hoặc phẩm chất, làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Theo đó, có thể hiểu Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là quá trình làm tăng thêm trình độ, năng lực cho con người, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo nhằm phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Dấu hiệu đặc trưng cơ bản xác định việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là ở tính quy định mới cao hơn về chất của cả khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo, đặc biệt là khả năng sáng tạo ra hệ thống tri thức mới. Để xem xét, đánh giá việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của một đối tượng cụ thể cần phải nắm được thực trạng ban đầu của nó, lấy đó làm cơ sở để tiến hành so sánh và đánh giá việc bồi dưỡng cũng như quá trình phát triển về chất của cái mới. Trên cơ sở thực trạng ban đầu ấy, cùng với đặc điểm, yêu cầu của lĩnh vực hoạt động, yêu cầu cần đạt được của sự phát triển để làm rõ đặc trưng, làm rõ khái niệm, xác định tiêu chí và đề ra giải pháp cụ thể phát triển các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học một cách hợp lý. 1.2. Thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Hiện nay, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng đã có nhiều đổi mới với hiệu quả ngày càng cao. Tuy nhiên, để đánh giá đúng thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay, Ban đề tài đã tiến hành đồng thời hình thức nghiên cứu tài liệu với nghiên cứu thực tế. Đó là kết hợp nghiên cứu những báo cáo, đánh giá, tổng kết của lãnh đạo, chỉ huy Hệ 5 và Ban sau đại học. Kết quả khảo sát này là căn cứ thực tiễn cho những nhận định, đánh giá của đề tài. 1.2.1. Năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay và nguyên nhân. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đã từ lâu là chủ đề được lãnh đạo, chỉ huy Hệ và các cơ quan của Nhà trường quan tâm bởi tình trạng nhiều công trình nghiên cứu sau khi nghiệm thu ít được ứng dụng, sử dụng hoặc nói chung ít phát huy hiệu quả trong thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng là một thực tế khá phổ biến. Vì vậy, vấn đề bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự càng được coi trọng. Với những tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể hiện nay, việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của học viên được thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự được triển khai ngày càng có nề nếp, quy trình chặt chẽ (từ tuyển chọn đến đánh giá, nghiệm thu), đúng quy định của cơ quan quản lý khoa học các cấp và ngày càng được tiêu chuẩn hóa. Thứ hai, bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thời gian qua được thể hiện rõ ở chất lượng các công trình nghiên cứu cũng như những đóng góp bổ sung lý luận và thúc đẩy thực tiễn xây dựng và phát triển của Nhà trường và Quân đội. Thứ ba, Bồi dưỡng nắng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thời gian qua đã thể hiện qua việc phát huy tốt năng lực tư duy sáng tạo của học viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nghiên cứu. Thứ tư, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự đã hình thành đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự phát triển nhanh về số lượng với chất lượng ngày càng cao, có kinh nghiệm, phương pháp và cách tiếp cận nghiên cứu riêng. Nguyên nhân đạt được của việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đó là: Khoa học xã hội và nhân văn quân sự có được sự phát triển với những thành tựu và hiệu quả như hiện nay là do nhiều nguyên nhân. Về tổng thể, có thể khái quát một số nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, nhận thức đúng về vai trò của khoa học xã hội và nhân văn quân sự là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển với những đóng góp thiết thực, hiệu quả của lĩnh vực khoa học này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Thứ hai, chất lượng đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đặc biệt là tính chủ động, sự sáng tạo của đội ngũ này là một trong những nhân tố cơ bản quyết định chất lượng, hiệu quả của việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên. Thứ ba, yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự là chất lượng sản phẩm, tính ứng dụng và tính thực tiễn của các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Thứ tư, tiềm lực của khoa học xã hội và nhân văn quân sự không ngừng được tăng cường cả về nhân lực, điều kiện vật chất kỹ thuật và công nghệ đủ khả năng thực hiện những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra. 1.2.2. Một số biểu hiện kém hiệu quả trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự - nguyên nhân. Việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay bên cạnh những thành tích đã đạt được còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót trong bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học. Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu đào tạo và kết quả của quá trình phát triển có thể thấy một số những hạn chế nổi lên như sau: * Về phát triển khả năng tri thức của học viên. Việc lĩnh hội tri thức của nhiều học viên còn khá vụn vặt, rời rạc, thiếu tính hệ thống, thống nhất, chưa có sự gắn kết cao giữa các môn học, phần học, bài học trong một chỉnh thể, tính khoa học, tính vững chắc của tri thức chưa cao, việc lý giải các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống còn thiếu căn cứ khoa học xác đáng. Tri thức của một số học viên còn nhiều chỗ hổng, chưa chuyển hoá tốt tri thức của xã hội, của giảng viên thành tri thức của cá nhân mình. Khả năng ghi nhớ, tái hiện tri thức của một số học viên còn hạn chế, cá biệt có học viên sau khi học xong môn học một thời gian đã quên cả tên của chủ đề, nội dung cơ bản của bài học, mặc dù đó là những nội dung rất thiết thực. Thực tế tri thức của học viên còn mất cân đối giữa tri thức lý luận và tri thức thực tiễn do ít được trải nghiệm trong cuộc sống và tôi luyện trong công tác ở đơn vị. Như vậy yếu tố tri thức trong năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chisinh trị hiện nay đang được phát triển lên một trình độ mới khá toàn diện, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành trong giai đoạn mới. Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thật vững chắc, còn bộc lộ sự mất cân đối, một số nội dung chưa đủ độ sâu so với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chiến đấu của quân đội ta trong giai đoạn hiện nay. * Về phương pháp tư duy. Trong quá trình học tập, một số học viên thích dựa dẫm vào sách vở, không chủ động tìm ra cách giải thích mới theo lôgíc riêng, bằng kiến thức tổng hợp của các môn học. Tính mềm dẻo, độc lập, sáng tạo trong tư duy của một số học viên còn hạn chế, chưa thể hiện vai trò một chủ thể nhận thức. Phương pháp tiếp cận, phân tích, luận giải những vấn đề mới không ít học viên còn gặp khó khăn. Đặc biệt trong quá trình thực hành, thảo luận, viết tiểu luận nhiều học viên còn tỏ ra lúng túng, sao chép nguyên văn các tài liệu đã có, việc phân tích, tổng hợp, phát hiện tình hình, đề xuất giải pháp để giải quyết còn chậm, hiệu quả đạt được chưa cao. Trong giải quyết xử lý các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong quá trình học tập, một số học viên còn biểu hiện chủ quan, nóng vội, thiếu giải pháp đồng bộ, tổng thể, còn biểu hiện của phương pháp tư duy siêu hình, phiến diện. * Về khả năng sáng tạo. Một số học viên ít có khả năng biến đổi thông tin thu nhận từ giảng viên, từ hệ thống tài liệu, thừa nhận dễ dàng trật tự của hệ thống tri thức, ít đưa ra chính kiến nhận thức của mình trước một vấn đề phức tạp mặc dù những ý kiến khác của thầy, của tài liệu họ cảm thấy chưa thuyết phục. Trong suy nghĩ nhiều học viên còn rập khuôn, máy móc, tuân theo ý thầy, theo đường mòn lối cũ, chấp nhận những giải pháp quen thuộc. Tính mềm dẻo của tư duy trong học tập ở một số học viên còn bộc lộ nhiều hạn chế. Năng lực tổng hợp, tạo ý tưởng mới để kết hợp các yếu tố riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh chưa được nhanh chóng, ứng xử chậm khi giảng viên đặt câu hỏi hay những tình huống khác thường. Khả năng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn trong nhận thức của mình còn hạn chế; ít trao đổi với giảng viên, bạn bè trong quá trình học tập. Năng lực xây dựng cấu trúc mới, kế hoạch mới, hành động mới chưa kịp thời, nhạy bén. Khả năng vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn còn thiếu nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo. Nguyên nhân của những biểu hiện kém hiệu quả trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Thứ nhất, sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, đặc biệt là chính sách, sự đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức quân đội nói chung, đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng chưa thỏa đáng, chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực khoa học này. Thứ hai, chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự chưa đáp ứng tình hình thực tiễn và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một trong những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Thứ ba, công tác quản lý khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn nhiều bất cập bởi còn tồn tại cơ chế hành chính quân sự. Thứ tư, đánh giá, nghiệm thu công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự chưa bảo đảm tính khách quan, khoa học, còn có hiện tượng “cảm tình”, “cảm tính” làm hạn chế hiệu quả nghiên cứu. Thứ năm, tuy phát triển nhanh, nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ thì đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện có còn thiếu cả về số lượng và chất lượng; bất cập về cơ cấu; mô hình tổ chức cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học còn nhiều khâu chưa hợp lý. Với những bất cập trên, để phát triển và nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thì việc “Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học; tăng số lượng để đạt mức trung bình của các nước công nghiệp mới ở châu Á; tăng mạnh số lượng cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao” Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2003, tr. 35. theo kết luận của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về khoa học công nghệ là yêu cầu trước mắt và là nhiệm vụ chiến lược thường xuyên của khoa học công nghệ quân sự nói chung, khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự bao gồm các thế hệ kế tiếp, đủ về số lượng, vững vàng về chính trị, có trình độ cao về học thuật, có tri thức chuyên ngành sâu và liên ngành rộng, đủ năng lực để tiếp cận khoa học hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn quân sự nước ta. Chỉ có trên cơ sở nâng cao chất lượng của đội ngũ trí thức thì nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới thực sự có hiệu quả. Chương 2 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUÂN SỰ CHO HỌC VIÊN SAU ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY 2.1. Định hướng bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Để việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay đạt hiệu quả tốt, nhất thiết cần đặt toàn bộ hoạt động nghiên cứu nói chung, từng công trình nói riêng vào một quy trình mang tính hệ thống, tổng thể, nhất quán, đặc biệt phải được định hướng một cách chặt chẽ. Trong tình hình hiện nay, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần nắm vững và tuân thủ những vấn đề có tính nguyên tắc về giữ vững định hướng chính trị, bảo đảm khả năng giáo dục tư tưởng, nâng cao hàm lượng khoa học và bám sát tình hình thực tiễn cũng như đáp ứng đòi hỏi khách quan và cấp bách của thực tiễn quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc, chú trọng nâng cao hiệu quả ứng dụng các kết quả nghiên cứu trong thực tiễn hoạt động quân sự. 2.1.1. Giữ vững định hướng chính trị trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trên cơ sở trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn chi phối một cách bao trùm trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, trong đó có lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Theo đó, mọi quá trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải được đặt trong định hướng chính trị của Đảng. Nghiên cứu khoa học để tìm tòi, phát hiện cái mới trên cơ sở tôn trọng khách quan, tôn trọng chân lý. Đương nhiên, mọi sản phẩm nghiên cứu khoa học chỉ có giá trị khi phục vụ được cho lợi ích của con người và xã hội, trong đó lợi ích chính trị luôn nổi lên trước hết trong các xã hội đang còn tồn tại cuộc đấu tranh giai cấp, nhất là những khoa học có tác dụng trực tiếp đối với cuộc đấu tranh “ai thắng ai” về mặt ý thức hệ như khoa học xã hội và nhân văn. Đặc biệt, lĩnh vực quân sự lại càng nhạy cảm về chính trị, và việc giữ vững đường hướng chính trị trong mọi khâu tổ chức và hoạt động quân sự mang ý nghĩa sống còn đối với việc giữ gìn thể chế chính trị. Chính vì vậy, nói đến nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay mà không nói đến định hướng chính trị của nó thì việc nghiên cứu ấy không có chỗ đứng vững chắc và không thể chấp nhận về mặt hiệu quả. Định hướng chính trị trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, trước hết đòi hỏi phải luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học trong hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi rọi các vấn đề nghiên cứu nhằm bảo đảm tính định hướng chính trị của các luận điểm khoa học. Hơn nữa, các công trình nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn quân sự lại càng cần dựa chắc trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp, về bạo lực vũ trang cách mạng, về chiến tranh và quân đội, về xây dựng và sử dụng sức mạnh của lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có dựa chắc trên nền tảng hệ thống lý luận Mácxít khoa thì mọi sự nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới thực sự phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội ta hiện nay. Trong bối cảnh thế giới đương đại, do tính chất biến động dữ dội của thời đại nên đã có nhiều vấn đề rất mới xuất hiện, việc giải quyết cũng đòi hỏi phải tìm ra nhiều cách thức lý luận rất mới. Trong bối cảnh mới, không thể bê nguyên xi những nguyên lý, lý luận đã từng chứng tỏ khả năng kỳ diệu trước đây để mong giải quyết các vấn đề thực tiễn mới, dù đó là những nguyên lý hay lý luận Mácxít. Tuy nhiên, điều đó chỉ nói lên tính cần thiết và cấp thiết phải đổi mới, bổ sung, phát triển lý luận Mácxít, chứ không mảy may chứng tỏ rằng lý luận ấy đã hoàn toàn lỗi thời. Đây là điều khác biệt lớn giữa khoa học xã hội và nhân văn nói chung, khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng với các khoa học khác. Trên cơ sở nắm vững lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng nhuần nhuyễn vào thực hiện hoạt động nghiên cứu của mình. Sở dĩ như vậy bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí Minh là biểu hiện sáng ngời về sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, đồng thời còn là sự đúc rút sâu sắc từ thực tiễn lịch sử và cách mạng Việt Nam để khái quát và nâng lên tầm lý luận. Toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay nói chung, nghiên cứu từng công trình khoa học nói riêng, không những là quá trình hiện thực hoá, cụ thể hoá mà còn phải tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân mang bản sắc dân tộc. Cách tư duy, cách ứng xử, giao tiếp, thiết lập những quan hệ xã hội, cách rút tỉa giá trị xã hội, cách định hướng giá trị nhân văn… của người Việt luôn mang những nét riêng không thể hoà lẫn với các dân tộc khác. Điều này, ngay trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động quân sự cũng vậy. Nếu quy luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua thì đối với dân tộc Việt Nam, trong hoạt động quân sự không bao giờ coi “đánh lấy mạnh” làm cứu cánh, mà thay vào đó là “đánh lấy khéo”. Trong tác chiến, các bên đều cố gắng tiêu hao, tiêu diệt sinh lực đối phương để mong giành thắng lợi, nhưng dân tộc ta thường chủ trương “đánh cốt đuổi, không cốt diệt”… Tất cả những nét tâm lý dân tộc ấy đã hình thành nên một cốt cách văn hoá quân sự độc đáo của người Việt. Hồ Chí Minh là một trong những vĩ nhân đã khẳng định được cốt cách văn hoá quân sự ấy. Hơn nữa, Người đã nâng nó lên tầm của một học thuyết chính trị, quân sự cách mạng dưới ánh sáng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, cùng với việc đứng vững trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, nhất thiết cần vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng chính trị và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đối với các vấn đề cơ bản như: về vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp quân sự, quốc phòng; về phát huy chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hoạt động quân sự, quốc phòng; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Chỉ có như vậy, kết quả sản phẩm nghiên cứu mới thực sự gắn chặt với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đặc thù của dân tộc, đồng thời có giá trị thực sự và thiết thực khi được đưa vào ứng dụng trong thực tế. 2.1.2. Bảo đảm tính tư tưởng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự nhằm khẳng định, kế thừa, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Giữ vững trận địa chính trị tư tưởng là yêu cầu khách quan của tổ chức và hoạt động quân sự trong quân đội. Bởi vì, yếu tố chính trị tư tưởng chính là biểu hiện tập trung bản chất giai cấp của quân đội, được biểu hiện thành mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, qui định tính chất các mối quan hệ quân sự trong quân nhân và tập thể quân nhân. Thực tế cho thấy trong tổ chức quân sự phải luôn vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, chỉ lơi lỏng một chút về trận địa chính trị tư tưởng cũng có thể gây nên những tổn thất không thể lường trước. Chính vì lẽ đó mà trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta hiện nay, chủ yếu chúng hướng vào chống phá trận địa chính trị tư tưởng của ta, lấy quân đội và các lực lượng vũ trang khác là mục tiêu trọng điểm. Trận địa chính trị tư tưởng được giữ vững còn là yếu tố quan trọng nhất để định hướng, chi phối các yếu tố khác trong nền tảng chính trị tinh thần rộng lớn xây dựng quân đội một cách toàn diện. Đó cũng là điều kiện không thể thiếu để định hướng, phát triển và phát huy tác dụng của những yếu tố tích cực trong phẩm chất tinh thần của bộ đội và loại dần những yếu tố tiêu cực ngoài xã hội vào đời sống và hoạt động của bộ đội. Quá trình giữ gìn, phát triển bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta là quá trình đồng thời giữ gìn, phát triển những yếu tố tích cực loại dần những yếu tố tiêu cực trong đó. Quá trình ấy chỉ có thể thực hiện hiệu quả khi nền tảng chính trị tinh thần, cùng với trận địa chính trị tư tưởng của quân đội thực sự vững chắc trên cơ sở chủ động thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục chính trị, quản lý hành chính quân sự, đấu tranh tư tưởng... Trong đó, việc nghiên cứu lý luận về xây dựng trận địa chính trị tư tưởng của Đảng trong quân đội có ý nghĩa và tác dụng lớn làm cho bộ đội ý thức sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, ra sức bảo vệ trận địa chính trị tư tưởng đó bằng cả tâm hồn, tình cảm và lý trí của mình. Chính vì vậy, cần có quy định thành yêu cầu nhất thiết đối với mọi công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự có nội dung góp phần vào cuộc đấu tranh giữ vững trận địa chính trị tư tưởng vô sản trong quân đội. Do vậy, nâng cao tính tư tưởng, tính giáo dục trong nghiên cứu nhằm khẳng định, kế thừa, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng phải trở thành một trong những định hướng chủ yếu để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Bảo đảm tính tư tưởng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự đòi hỏi các công trình nghiên cứu phải góp phần khẳng định tính đúng đắn và những giá trị cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, tích cực góp phần xây dựng, củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là tất yếu. Song công việc đó chỉ trở nên có tính thuyết phục khi được luận chứng khoa học. Điều này cần được xác định như một tiêu chí không thể thiếu đối với các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Để nâng cao hiệu quả các công trình khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nhất thiết phải bảo đảm giữ vững tính định hướng tư tưởng trong suốt cả quá trình nghiên cứu đối với từng công trình khoa học. Mỗi cán bộ nghiên cứu phải luôn luôn trăn trở đối với việc giải đáp các vấn đề như sản phẩm nghiên cứu sẽ góp phần giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng như thế nào, góp phần bảo đảm sự thống nhất chính trị tư tưởng trong quân đội ra sao, có thực sự góp phần xây dựng toàn quân một ý chí hay không… Chỉ có như vậy thì kết quả nghiên cứu mới không chỉ thuần tuý là một hệ thống những khái niệm khoa học, mà còn là và phải là một trong những nguồn tư liệu sống động góp phần giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị của bộ đội. Hiệu quả thực sự của một công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trước hết là phải góp phần làm chuyển biến tư tưởng bộ đội. Tính tư tưởng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay đòi hỏi công trình nghiên cứu phải bảo đảm sự kế thừa, tính sáng tạo và phát triển đối với những chân lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Nếu thiếu đi sự kế thừa đó thì công trình nghiên cứu không những dễ chệch định hướng chính trị mà còn dễ rơi vào tình trạng võ đoán, thiếu độ chín, thiếu độ sâu và tính thuyết phục. Nhưng nếu không có sự khám phá mới, sáng tạo thì chỉ là sự bê nguyên tri thức, không thể góp phần làm giàu lý luận cách mạng và cũng không thể bảo vệ được nền tảng tư tưởng của Đảng một cách chủ động và vững chắc. Thực tiễn đã khẳng định, cách thức tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng là không ngừng phát triển nền tảng tư tưởng ấy luôn phù hợp với thực tiễn thời đại. Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay phải quán được tinh thần ấy thì mới thực sự có giá trị, thực sự đạt hiệu quả cao. Mặt khác, cần thấy rằng giữ vững định hướng tư tưởng trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng chính là làm cho nền tảng tư tưởng của Đảng luôn được cụ thể hoá vào đời sống quân đội. Lý luận sẽ chỉ là màu xám nếu cứ nằm im trong sách vở. Lý luận chỉ trở thành sức mạnh vật chất, chuyển hoá thành “cây đời mãi mãi xanh tươi” khi được chuyển tải vào hành động thực tiễn. Các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự sẽ trở nên hoàn thiện và có giá trị thực tiễn cao chỉ khi đạt đến trình độ làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ ngày càng gần hơn với lý luận, thừa nhận sức mạnh cải biến thực tiễn của lý luận, luôn tìm cách trau dồi lý luận trong nhận thức tư tưởng và chuyển hoá nó thành hành động cách mạng của mình, góp phần đưa quan điểm của Đảng vào đời sống tinh thần bộ đội. Tính tư tưởng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chống lại mọi âm mưu thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Hiện nay, cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận đang được đặt ra gay gắt. Càng khó khăn hơn khi kẻ thù chống ta không chỉ bằng những luận điệu thuần tuý lừa bịp, mà bằng cả lý lẽ. Để giữ vững trận địa tư tưởng phải dùng lý luận khoa học bóc trần những luận điệu xuyên tạc của địch. Đây là một công việc không đơn giản nếu thiếu đi những công trình nghiên cứu khoa học với chất lượng cao. Do đó, một trong những tiêu chí mang tính bắt buộc đối với một công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự là phải mang tính tư tưởng cao, tích cực góp phần vào đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. 2.1.3. Bảo đảm tính khoa học trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trên cơ sở nắm vững thế giới quan, phương pháp luận khoa học và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, tăng tính khám phá và tính thuyết phục khoa học. Nói đến hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự không thể không nói đến mục đích chính trị của việc nghiên cứu. Tuy nhiên, đã là khoa học thì quá trình nghiên cứu phải đạt đến sự luận giải khoa học chứ không phải chỉ là sự áp đặt thiên kiến giai cấp. Toàn bộ những khía cạnh thuộc nội dung nghiên cứu của từng công trình khoa học, kể cả khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đều phải đạt đến độ thuyết phục bằng những luận cứ khoa học. Nhất là đối với các vấn đề xã hội, nếu trong những công trình nghiên cứu thiếu các khái niệm, phạm trù khoa học mang tính công cụ, thiếu đi sự tư duy khoa học lôgíc và hệ thống phương pháp tiếp cận khoa học thì các vấn đề nghiên cứu lại càng bị dấu kín, không bộc lộ được bản chất, quy luật của nó. Do vậy, trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nhất thiết người nghiên cứu cần bảo đảm tính khoa học trong nghiên cứu trên cơ sở nắm vững phương pháp luận khoa học và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu làm tăng tính khám phá và thuyết phục khoa học. Định hướng khoa học đối với nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay trước hết đòi hỏi đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải trên cơ sở nắm vững thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời xác định rõ hệ thống phương pháp nghiên cứu chuyên ngành phù hợp, thì quá trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới được triển khai một cách thuận lợi, thông suốt và đem lại những kết luận khoa học xác đáng. “Phương pháp là một nửa của thành công”. Thiếu phương pháp thì không những sự thiết kế lôgíc nội dung công trình nghiên cứu sẽ trở nên lộn xộn, mà sản phẩm nghiên cứu sẽ trở nên chắp vá, tự mâu thuẫn trong hệ thống, và dĩ nhiên dẫn đến kém hiệu quả thực tiễn, thậm chí không giá trị. Hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng được thể hiện rõ nét ở tính thuyết phục về mặt khoa học của các luận điểm và kết luận được rút ra. Các luận điểm và kết luận được rút ra có thể không phải là vấn đề hoàn toàn mới, nhưng quan trọng là đáp ứng đúng đòi hỏi của thực tiễn và phải có căn cứ khoa học xác đáng. Chính vì vậy mà hiện nay, xu hướng nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng, là nghiên cứu đúng góc độ của từng chuyên ngành khoa học. Việc xác định rõ ràng ngay từ đầu khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu là tiền đề cần thiết để có cái nhìn dự báo về hiệu quả của toàn bộ quá trình nghiên cứu tiếp sau. Mặt khác, để bảo đảm tính thuyết phục về mặt khoa học của công trình nghiên cứu cũng như trong từng nội dung cốt lõi, nhất thiết cần tăng hàm lượng khoa học của từng luận điểm, luận chứng. Đặc biệt, trong xu thế phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, hiệu quả nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói riêng, phụ thuộc rất lớn vào việc vận dụng nhuần nhuyễn các phương pháp hiện đại, tiên tiến. Song, dù sử dụng phương pháp hiện đại hay phương pháp truyền thống thì điểm mấu chốt cuối cùng vẫn phải là tính thuyết phục về mặt khoa học của công trình nghiên cứu. Định hướng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong quân đội ta hiện nay đòi hỏi phải bảo đảm tính khách quan, khoa học trong tất cả các khâu của quá trình nghiên cứu. Việc xác định công trình nghiên cứu cần được đặt trong một kế hoạch tổng thể mang tính khoa học chặt chẽ, tránh tình trạng tuỳ tiện, tuỳ hứng. Cùng với việc xác định hệ thống công trình nghiên cứu cơ bản, cần chú trọng thiết kế những công trình tập trung giải quyết những vấn đề thực sự cấp thiết nhưng có tính khả thi. Quá trình triển khai nghiên cứu cần được tổ chức một cách khoa học, không chỉ diễn biến đúng trình tự nghiên cứu mà còn bảo đảm “đúng người, đúng việc”, lấy chất lượng và hiệu quả nghiên cứu làm tiêu chí cao nhất. Tính khách quan và khoa học cũng phải được thể hiện trong cả khâu đánh giá, nghiệm thu công trình nghiên cứu khoa học, thực sự lấy chất lượng khoa học làm tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng công trình nghiên cứu. Cuối cùng, tính khách quan, khoa học còn phải được quán triệt và bảo đảm nghiêm túc trong khâu chuyển giao và ứng dụng kết quả nghiên cứu của từng công trình khoa học. Đặc biệt, tính khách quan, khoa học trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thể hiện đậm nét ở việc liên kết một cách chặt chẽ và lôgíc đối với tất cả các khâu, các bước nói trên của quá trình nghiên cứu, diễn biến cho toàn bộ quá trình nghiên cứu luôn được vận hành một cách thông suốt và thuận lợi. Bảo đảm tính khoa học của việc nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thể hiện đậm nét nhất ở khả năng khám phá khoa học của từng công trình nghiên cứu. Cái mới về khoa học là yêu cầu bắt buộc đối với các công trình khoa học. Tuy nhiên, tìm được cái mới trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn quân sự là không đơn giản. Để đạt tới tiêu chí này, các chủ thể nghiên cứu cần đầu tư khảo sát nhằm tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, thường xuyên có sự trao đổi, tranh luận và phản biện khoa học để hình thành, triển khai, phát triển và bảo vệ các ý tưởng khoa học mới. Cũng theo đó, việc bảo đảm tính công khai và dân chủ về khoa học của hoạt động nghiên cứu và quản lý khoa học xã hội và nhân văn quân sự là rất cần thiết. Mọi sự áp đặt, thiếu dân chủ đều dẫn tới dập tắt các ý tưởng sáng tạo khoa học mới mang tính khám phá. Ngoài ra, để tăng tính khám phá khoa học, cần có sự tăng cường phối, kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài quân đội, đồng thời nâng cao chất lượng chuyên gia khoa học trong quá trình nghiên cứu. Việc bảo đảm tính khoa học trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự gắn chặt với quá trình nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Xét đến cùng thì chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học trực tiếp phụ thuộc vào chất lượng của chủ thể nghiên cứu. Do đặc điểm tổ chức và hoạt động quân sự nên “chất cán bộ quân sự” của đội ngũ trí thức quân đội thể hiện đậm nét hơn, thậm chí lấn át “chất cán bộ khoa học”. Và điều đó thường dẫn đến nguy cơ áp đặt khoa học, quá nhấn mạnh xu hướng mệnh lệnh hành chính quân sự, làm giảm hàm lượng khoa học của các công trình nghiên cứu về lĩnh vực xã hội và nhân văn quân sự. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, trước hết phải đào tạo đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự theo hướng cơ bản, toàn diện, chuyên sâu. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, cần hết sức coi trọng việc nâng cao hàm lượng trí tuệ và bản lĩnh khoa học của đội ngũ này, cố gắng theo kịp mặt bằng trình độ chung của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong nước và thế giới. 2.1.4. Bám sát thực tiễn, bảo đảm tính hướng đích, tập trung đáp ứng những nhu cầu thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Đối với bất kỳ một khoa học nào, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học thì nhất thiết phải bám sát thực tiễn. Đó chính là sự thể hiện mối liên hệ hữu cơ giữa lý luận với thực tiễn. Xét đến cùng thì mọi sự nghiên cứu lý luận đều không mang mục đích tự thân, mà nghiên cứu lý luận chính là nhằm giải quyết các vấn đề được đặt ra từ thực tiễn. Mặt khác, lý luận cũng không thể tự thân phát triển nếu thiếu nguồn nguyên liệu được chắt lọc, khái quát, đúc kết từ thực tiễn. Lý luận phải hướng về thực tiễn. Có hướng về thực tiễn, gắn với thực tiễn thì mới phát hiện được những “đơn đặt hàng” từ thực tiễn. Đồng thời, chỉ khi gắn với thực tiễn thì lý luận mới tìm được những câu trả lời thực sự có giá trị. Ngay cả phương pháp tư duy lý luận, dù cao siêu đến đâu, xét đến cùng đều là sự khái quát, mô phỏng từ hoạt động thực tiễn. Lênin từng chỉ rõ rằng, thực tiễn lặp đi lặp lại hàng triệu lần được in vào óc người thành những biểu tượng lôgíc. Đối với lĩnh vực tổ chức và hoạt động quân sự, quốc phòng lại càng đúng như vậy. Do đó, mọi quá trình nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn quân sự nhất thiết phải bám sát thực tiễn tình hình quốc tế, trong nước và quân đội, bảo đảm tính hướng đích, tập trung đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của toàn quân cũng như của từng đơn vị. Trước hết, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải bám sát về độ rộng và tính toàn diện của thực tiễn. Việc giải đáp những vấn đề lý luận khoa học xã hội và nhân văn quân sự đặt ra không chỉ liên quan đến nguồn tư liệu thực tiễn từ các đơn vị, mà còn cần phải dựa vào bức tranh toàn cảnh của thế giới và trong nước. Việc bám sát tình hình thực tiễn trên thế giới và trong nước cần được tập trung ở hai phương diện chủ yếu: một là, bối cảnh chính trị chung; hai là, thực trạng hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Có bám sát bối cảnh chính trị chung thì việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới có cơ sở thực tiễn để đúc kết những vấn đề lý luận gắn với giải quyết những vấn đề chính trị, xã hội đặt ra. Mặt khác, có đặt trong tình hình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn thì mới có góc nhìn toàn diện, tăng tính phản biện và tính khám phá khoa học, đồng thời kế thừa các giá trị khoa học đã được giới lý luận có uy tín khẳng định. Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nhất thiết phải bám sát thực tiễn của quân đội, trực tiếp là tình hình thực tiễn từ các đơn vị cơ sở. Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, xét đến cùng là nhằm phục vụ quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Chỉ có xuất phát từ thực tiễn quân đội và thực tiễn các đơn vị thì mới xác định một cách sát, đúng về nhiệm vụ nghiên cứu nói chung của khoa học xã hội và nhân văn quân sự, cũng như xác định được một hệ thống công trình nghiên cứu vừa mang tính cấp thiết vừa mang tính khả thi. Trong quá trình triển khai các hướng nghiên cứu và nội dung nghiên cứu, cũng cần phải bám sát thực tiễn quân đội và thực tiễn các đơn vị thì mới có cơ sở thực tiễn để khẳng định các luận điểm khoa học. Đó còn là cơ sở và tiền đề quan trọng để tiến hành kiểm tra, điều chỉnh và đánh giá, nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Thậm chí, đây phải được coi là một tiêu chí chính để đánh giá chất lượng, hiệu quả của từng công trình nghiên cứu, bởi nó liên quan trực tiếp đến khả năng ứng dụng của công trình. Rõ ràng, tính hướng đích là tiêu chí cơ bản bậc nhất của mọi quá trình nghiên cứu khoa học. Việc chú trọng bảo đảm tính hướng đích của nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự hiện nay là khía cạnh nổi bật nhất để nâng cao hiệu quả các công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học này. Để tránh tình trạng nghiên cứu chung chung, xa rời thực tiễn, cần tập trung ưu tiên cho các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự nhằm hướng tới trực tiếp góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đang nổi lên cấp bách trong lực lượng vũ trang cũng như trong quân đội ta nói chung, trong từng đơn vị nói riêng. Đương nhiên, nói như thế không có nghĩa chúng ta xem nhẹ hoặc bỏ qua nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản. Nếu không có nghiên cứu cơ bản thì các công trình nghiên cứu ứng dụng sẽ trở nên mất điểm tựa lý luận cơ bản, thiếu khái niệm khoa học công cụ, thiếu phương pháp tư duy khoa học. Song nếu chỉ tập trung nghiên cứu cơ bản thì khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng không thể đáp ứng được những nhu cầu cấp bách của thực tiễn đang đòi hỏi phải được giải đáp bằng lý luận hiện nay. Việc thường xuyên bám sát tình hình thực tiễn, bảo đảm tính hướng đích, tập trung đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của quân đội, một mặt đặt ra đòi hỏi cao, mặt khác tạo tiền đề không thể thiếu để khoa học xã hội và nhân văn quân sự tham gia tích cực vào việc tìm những khâu đột phá, những giải pháp đột phá trong đổi mới, xây dựng và phát triển quân đội. Chỉ có trên cơ sở bám sát thực tiễn thì cùng với những kết luận khoa học về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu mới được cụ thể hoá thành các giải pháp mang tính giáo dục và khả thi nhằm chuyển biến tình hình thực tiễn. Yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là trong điều kiện sẵn sàng đối phó với nhiều tình huống chiến lược đa dạng, đang đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những giải pháp mang tính đột phá trong xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội. Và chỉ có bám sát tình hình thực tiễn, bảo đảm tính hướng đích thì quá trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới thực sự đạt hiệu quả cao trong kiếm tìm các giải pháp mới đó. Bám sát thực tiễn, bảo đảm tính hướng đích, tập trung đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của quân đội và các đơn vị, trong nghiên cứu phát triển lý luận khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần ưu tiên cho việc gắn phát triển lý luận với tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải thực sự từ tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đồng thời thấu suốt phát triển lý luận để làm tốt hơn tổng kết thực tiễn, chỉ như vậy thì mới bảo đảm nâng cao hiệu quả nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của đất nước, quân đội cũng không ngừng trưởng thành, lớn mạnh đòi hỏi hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng không ngừng tự đổi mới theo hướng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của đơn vị cơ sở. Nội dung nghiên cứu không những bám sát nhiệm vụ chính trị mà còn bám sát nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của bộ đội để có nhiều công trình, sản phẩm khoa học góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị và phát triển giá trị nhân văn trong quân đội, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần bộ đội ngày càng phong phú, có nhân cách phát triển toàn diện. 2.1.5. Tăng cường tính đa dạng của các loại hình sản phẩm nghiên cứu, nâng cao hiệu quả xã hội các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự chịu sự chi phối định hướng của nguyên tắc cơ bản về mối liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn quân sự. Trên cơ sở đó, hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự còn phụ thuộc trực tiếp vào khả năng đa dạng hoá các loại hình sản phẩm nghiên cứu và nâng cao hiệu quả xã hội các kết quả nghiên cứu của mình. Trong thực tiễn đối tượng nghiên cứu và phục vụ của khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng rất đa dạng, phong phú ở nhu cầu, sở thích, trình độ nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh công tác... Do vậy, cùng một vấn đề nghiên cứu, cùng một kết quả nghiên cứu, cùng một đối tượng phục vụ nếu các sản phẩm nghiên cứu được đa dạng hoá, thông qua đó đến được với đông đảo bộ đội để đưa tri thức khoa học đến với cán bộ, chiến sĩ để tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng được kịp thời, đó sẽ là chỉ số về hiệu quả nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Điều này còn đòi hỏi các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự phải tính đến tất cả các khâu, các bước trong quy trình nghiên cứu đều phải gắn với thực tiễn và khả năng xã hội hoá sản phẩm nghiên cứu ngay trong quá trình nghiên cứu, tránh tình trạng các công trình sau khi nghiệm thu cho vào kho "lưu trữ" tiêu tốn tiền bạc của Nhà nước. Đây là các mắt khâu để xem xét hiệu quả của các công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Khoa học xã hội và nhân văn quân sự là khoa học nghiên cứu về hoạt động quân sự và đời sống tinh thần quân nhân. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, kinh tế tăng trưởng, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, các kênh thông tin khác nhau, đa dạng, đa chiều hàng ngày xâm nhập vào trong quân đội và tư tưởng bộ đội. Thực tế đó đòi hỏi các khoa học xã hội và nhân văn quân sự cũng phải không ngừng tự đổi mới, tự hoàn thiện, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng cao, cung cấp nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và đa dạng về hình thức, loại hình để phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đối với sự nghiệp quốc phòng, xây dựng quân đội cũng như thoả mãn các nhu cầu về đời sống tinh thần ngày càng cao của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; góp phần vào giữ vững trận địa tư tưởng lý luận quân đội, kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần nắm vững các định hướng cơ bản như đã trình bày. Mỗi định hướng có vai trò riêng đồng thời giữa chúng luôn có mối quan hệ không tách rời, tất cả cùng hướng tới khách thể phục vụ là hoạt động quân sự và đời sống tinh thần quân nhân. Trong quá trình nghiên cứu các chủ thể khoa học cần nắm vững. 2.2. Một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học ở trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. 2.2.1. Đổi mới nhận thức của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học, và học viên đối với khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Nhận thức đúng là cơ sở, tiền đề không thể thiếu để hành động đúng. Để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, trước hết phải nhận thức đúng những khía cạnh bản chất nhất của hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Đây không chỉ là yêu cầu đối với đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, mà còn là đòi hỏi khách quan đối với mọi chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học các cấp. Thực tế cho thấy, nơi nào xem nhẹ vai trò nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thì ở đó, không những công tác triển khai nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, mà sản phẩm nghiên cứu dù chất lượng tốt cũng khó được ứng dụng. Nguy cơ này càng dễ thành hiện thực trong môi trường quân sự, khi cơ chế quản lý khoa học, một mặt đã bị hành chính hóa, mặt khác còn bị chi phối bởi cơ chế quản lý hành chính quân sự. Để tháo gỡ tình trạng này, cần phải có sự đổi mới tư duy để có những bước chuyển căn bản về nhận thức của các chủ thể quản lý, nhất là các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học. Trong bối cảnh cuộc cách mạng quân sự mới đang diễn ra thì việc nghiên cứu khoa học công nghệ quân sự hay khoa học nghệ thuật quân sự là cần thiết. Tuy nhiên, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, mà nòng cốt là xây dựng quân đội lại có những khía cạnh chính trị, xã hội đặt ra mà không thể không có sự giải đáp khoa học. Điều đó đòi hỏi các cấp lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan quản lý khoa học và cán bộ nghiên cứu khoa học đều phải có nhận thức đúng đắn về khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Với các công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân và văn quân sự, càng cần có sự đổi mới nhận thức của các chủ thể quản lý mà trực tiếp là cơ quan quản lý khoa học. Nếu rơi vào cách nhìn phiến diện, hời hợt, cho rằng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự chỉ thuần tuý là triển khai, cụ thể hoá sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, thì chủ trương đầu tư, chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu và quản lý nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những lệch lạc. Và như vậy không thể nói đến chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Từ kết quả khảo sát cho thấy, đổi mới nhận thức đối với khoa học xã hội và nhân văn quân sự nói chung, đối với nâng cao hiệu quả của lĩnh vực khoa học này nói riêng đang là vấn đề rất cấp thiết cần phải tiến hành ngay (Phụ lục 2,3,4,5 - C7a). Do vậy, phải thấu triệt quan niệm rằng, khoa học xã hội và nhân văn quân sự là khoa học trực tiếp nghiên cứu về con người trong tổ chức quân sự, quốc phòng, bị chi phối bởi hoạt động quân sự, quốc phòng. Như vậy, tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận Mácxít về con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội thì phải đặc biệt coi trọng nghiên cứu con người trong môi trường quân sự, quốc phòng. Nghĩa là phải coi trọng nghiên cứu cứu lĩnh vực khoa học đặc thù này. Vì vậy, để đổi mới nhận thức của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học, của cơ quan, đơn vị nghiên cứu và đội ngũ trí thức đối với khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất, từ nhận thức đúng về khoa học xã hội và nhân văn quân sự, các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm điều kiện và môi trường cho nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Cần nhận thức một cách khách quan rằng, sản phẩm của các công trình khoa học xã hội và nhân văn quân sự không thể lượng hoá tối đa và áp dụng trực tiếp như các công trình khoa học công nghệ quân sự hoặc không thể đưa ngay vào huấn luyện bộ đội như các công trình khoa học nghệ thuật quân sự. Vì vậy, cần có quan điểm “đầu tư mềm”, nghĩa là đầu tư vào quá trình sáng tạo sản phẩm khoa học chỉ có thể mang lại hiệu quả thực tiễn bằng phương thức “chuyển dần giá trị”. Đây là phương thức duy nhất phù hợp với đặc thù sản phẩm khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Thứ hai, chuyển nhận thức của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học đối với nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự thành phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Trong hệ thống quyết sách lãnh đạo đơn vị, cần định hướng lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự, nhất là đối với những vấn đề có ý nghĩa thiết thực, chú trọng tính hiệu quả. Đồng thời, cần nhạy bén phát hiện những vấn đề mang tính phổ quát để đề xuất với trên. Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cần được xác định thành chiến lược, kế hoạch nghiên cứu cụ thể. Ở tầm vĩ mô, phải có các quy hoạch chiến lược phát triển khoa học xã hội và nhân văn quân sự nằm trong tổng thể quy hoạch chiến lược phát triển khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Đặc biệt, đối với các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, hệ thống nhà trường quân đội và cơ quan lý khoa học các cấp trong quân đội thì đây là nhiệm vụ mang tính pháp quy cần được triển khai chặt chẽ. Thứ ba, chuyển từ nhận thức đúng thành các phương án sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự vào hoạt động của các đơn vị trong toàn quân cũng như hoạt động quân sự, quốc phòng trong cả nước. Đổi mới nhận thức của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, quản lý khoa học trong quân đội là điều kiện cần thiết để đa dạng hoá khả năng sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự theo hướng tăng cường “đơn đặt hàng” từ nhu cầu của hoạt động quân sự, quốc phòng và các đơn vị quân đội. Chỉ có như vậy nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự mới cung cấp những sản phẩm có giá trị khoa học, bám sát thực tiễn. Đây là một trong những biện pháp quan trọng trực tiếp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Bởi lẽ, xét đến cùng, hiệu quả nghiên cứu phải được thể hiện ở những tác động thực của sản phẩm khoa học trong hoạt động quân sự, quốc phòng. Cần khắc phục nhận thức cho rằng, để quản lý, chỉ huy bộ đội và thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị, chỉ cần tuân thủ đúng điều lệnh, điều lệ của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên là đủ. Thứ tư, với đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự, cần có sự đổi mới nhận thức toàn diện về các công trình nghiên cứu. Cần hiểu rõ sự cần thiết, tính cấp thiết của từng công trình nghiên cứu. Cần định vị chính xác công trình sẽ nghiên cứu trong tổng thể hệ thống tri thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Theo xu hướng chung của nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hiện nay, việc xác định công trình khoa học xã hội và nhân văn quân sự rất cần dựa trên cái nhìn tổng quan tình hình nghiên cứu một cách hết sức nghiêm túc, nhằm tránh sự trùng lắp, lặp lại những phương pháp tiếp cận sáo mòn, thậm chí “xào lại”, nói theo, tuy không phải là phổ biến nhưng đã từng xuất hiện trong hoạt động nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn cũng như trong khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Đặc biệt, việc triển khai nội dung và phương pháp nghiên cứu của từng công trình cũng cần được đổi mới trên cơ sở nắm vững nhu cầu nghiên cứu, đặc thù của nội dung công trình nghiên cứu, trong đó phải dự kiến kết quả nghiên cứu cũng như ý nghĩa, giá trị và khả năng ứng dụng thực tiễn của những kết quả đó. 2.2.2. Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự cho học viên đào tạo sau đại học Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường vừa là điều kiện bảo đảm, vừa là động lực thúc đẩy học viên tích cực học tập, rèn luyện, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình. Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là kết quả tổng hợp của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng và nhiều hoạt động của Nhà trường, đồng thời là kết quả của sự quan tâm chỉ đạo, định hướng của cấp trên. Chính vì vậy vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải tạo được sự thống nhất về nhận thức, đề cao trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng. Làm cho mọi đối tượng nhận thức đúng đắn vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho học viên. Đây là yêu cầu quan trọng xuất phát từ thực tiễn nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trường, đồng thời là cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo sự đồng bộ trong việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Yêu cầu đó đòi hỏi không chỉ thể hiện trong các văn bản, nghị quyết mà còn phải được thể hiện bằng các hoạt động và việc làm cụ thể. Đối với các cấp uỷ Đảng, nhất là tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị quản lý, giáo dục, đào tạo, phải thật sự coi hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là một nhiệm vụ trung tâm gắn liền với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của mình. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo định hướng nội dung, lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học cho đơn vị và phục vụ đắc lực cho quá trình bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Lấy kết quả thực hiện đó làm một nội dung đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng và đảng viên. Trên cơ sở sự lãnh đạo của tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp phải cụ thể hoá bằng các chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch và phân công giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền tổ chức thực hiện có hiệu quả. Phải thường xuyên coi trọng và thực hiện tốt công tác tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá đúng thực chất kết quả thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của đơn vị và hiệu quả tham gia vào quá trình bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên, kịp thời đề ra những biện pháp cụ thể để khắc phục thiếu sót khuyết điểm. Tổ chức tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học, là một yếu tố cơ bản tạo nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường, một yếu tố thường xuyên và có tác động to lớn đến bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Thực hiện phương hướng lãnh đạo trên đây đòi hỏi các cơ quan đơn vị trong Nhà trường phải đề cao trách nhiệm của mình. Trước hết Ban sau đại học và Phòng Khoa học Công nghệ Nhà trường là những cơ quan chủ trì tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học phải có sự quan hệ chặt chẽ trong xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thường xuyên coi trọng định hướng nội dung, lĩnh vực nghiên cứu cho các cơ quan, đơn vị. Tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường giao đề tài nghiên cứu cho các đơn vị, đồng thời tạo điều kiện về lực lượng, thời gian và cơ sở vật chất, tài liệu cho các đơn vị hoàn thành nội dung nghiên cứu của mình. Việc định hướng lựa chọn đề tài nghiên cứu phải hết sức coi trọng tính thực tiễn, tính hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Cần chú trọng khuyến khích nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp đến đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên và chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học của học viên. Thường xuyên thông tin kịp thời những thành tựu đạt được của nghiên cứu khoa học nhất là khoa học quân sự của thế giới và trong nước, những kết quả đạt được trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường, làm cơ sở cho các cơ quan đơn vị, nhất là các khoa giáo viên kế thừa, vận dụng và nghiên cứu phát triển phục vụ cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường là hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên. Đây là một hoạt động cơ bản của giảng viên ở các trường đại học nói chung, giảng viên Trường sĩ quan Chính trị nói riêng. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên không chỉ góp phần quan trọng phát triển tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết cho giảng viên, nâng cao chất lượng giảng dạy, mà còn trực tiếp tác động đến tính tích cực hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên. Hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trước hết phải gắn chặt và phục vụ cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, đổi mới nội dung phương pháp, nâng cao chất lượng bài giảng của mình. Bài giảng của giảng viên là một công trình khoa học, là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu và sáng tạo của giảng viên. Chất lượng tốt của một bài giảng không chỉ là điều kiện để học viên tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhanh chóng mà còn tác động to lớn kích thích tính tích cực sáng tạo của học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Đội ngũ giảng viên là lực lượng chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường; tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên là những mẫu mực để học viên học tập. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy cùng với việc nghiên cứu đổi mới nội dung phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy, giảng viên phải hết sức coi trọng và thực hiện tốt nội dung, kế hoạch nghiên cứu khoa học của Nhà trường, của khoa và của chính bản thân mình, đồng thời tích cực nghiên cứu phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, những bất cập trong hoạt động thực tiễn giáo dục, đào tạo của Nhà trường, trên cơ sở đó nghiên cứu đề xuất giải pháp khắc phục và góp phần phát triển tri thức mới. Coi trọng và phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên trong việc định hướng giúp đỡ các lực lượng tham gia nghiên cứu khoa học nhất là đội ngũ học viên. Hướng dẫn cho họ cách thức phát hiện vấn đề lựa chọn đề tài nghiên cứu, phương pháp lập luận, lý giải, trình bày một đề tài nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho họ vận dụng vào hoạt động nghiên cứu trong quá trình học tập công tác của mình. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học cho học viên; tạo ra phong trào thi đua nghiên cứu khoa học của học viên là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà trường, là một yếu tố cơ bản tạo nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy các tổ chức, các lực lượng trong Nhà trường, trước hết là cơ quan Ban sau đại học, Phòng Khoa học Công nghệ, các khoa giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý học viên phải có sự kết hợp chặt chẽ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho học viên tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, kích thích tính tích cực, tự giác nghiên cứu khoa học của họ. 2.2.3. Phát huy tính tích cực tự giác của người học trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự Tính tích cực tự giác của học viên trong bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là yếu tố cơ bản trong quá trình tự bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của mỗi học viên. Điều kiện khách quan dù thuận lợi đến đâu, nếu bản thân người học thiếu tích cực tự giác thì hiệu quả phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ cũng sẽ không cao; bởi lẽ đó chính là quá trình bản thân người học tự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình. Học viên vừa là người tích cực, chủ động đề ra kế hoạch, nội dung, chương trình, mục tiêu, biện pháp phát triển nghiên cứu khoa học, vừa là người thực hiện nội dung chương trình đó. Phát huy tính tích cực, tự giác của học viên trong tự bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là quá trình hướng nội nhằm biến đổi nhận thức, tình cảm, ý chí của bản thân họ. Quá trình đó, người học phải tự giải quyết những mâu thuẫn bên trong trước yêu cầu phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình. Tính tích cực tự giác của học viên trong tự bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình phát triển nhận thức của chính bản thân họ về vị trí vai trò của nghiên cứu khoa học và sự tác động của các yếu tố bên ngoài tạo thành động lực cho họ. Chính vì vậy, phát huy tính tích cực, tự giác của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay trong nghiên cứu khoa học cần chú trọng một số biện pháp cơ bản sau đây: Một là, giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ, động cơ trong nghiên cứu khoa học đúng đắn cho học viên. Nhận thức, thái độ, động cơ nghiên cứu khoa học đúng đắn, rõ ràng sẽ tạo cho học viên có ý thức, trách nhiệm cao, có khả năng huy động tốt nhất những phẩm chất tâm lý, ý chí, quyết tâm vươn lên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học; là cơ sở để người học say mê, nhiệt tình, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn vươn lên trên con đường chiếm lĩnh tri thức, phát triển năng lực tư duy và khả năng sáng tạo. Đó cũng chính là những biểu hiện cao nhất tính tích cực, tự giác trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Chính vì vậy cần phải thường xuyên coi trọng và bằng nhiều biện pháp giáo dục cho học viên nhận thức đúng đắn đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta trong giai đoạn hiện nay và vị trí vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đó. Làm cho học viên thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học đối với việc phát triển các phẩm chất năng lực của người học viên và kết quả thực hiện nhiệm vụ trong quá trình giáo dục, đào tạo cũng như trên cương vị công tác sau này. Trên cơ sở đó xây dựng cho học viên có thái độ đúng đắn đối với việc nghiên cứu khoa học; coi sự phát triển đó là trách nhiệm của mỗi học viên. Khắc phục tư tưởng tự ty của học viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Làm cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học trở thành nhu cầu bên trong của họ. Hai là, tăng cường tổ chức các hoạt động thực tiễn cho học viên Hoạt động thực tiễn là môi trường thuận lợi cho mỗi học viên tự khẳng định mình, làm nảy sinh ở họ nhu cầu tích cực, tự giác phấn đấu vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Thực tiễn không chỉ là nơi kiểm nghiệm đánh giá nhận thức, năng lực của mỗi học viên, mà còn là "mảnh đất" hiện thực sinh động, kích thích lòng say mê, nhiệt tình sáng tạo của họ. Càng tham gia nhiều hoạt động thực tiễn bao nhiêu, những vấn đề mới càng nảy sinh bấy nhiêu và càng thôi thúc họ tích cực nghiên cứu, tìm tòi, khám phá. Chính vì vậy trong quá trình giáo dục, đào tạo phải hết sức chú trọng tổ chức hoạt động thực tiễn cho học viên. Ba là, có chính sách cụ thể, khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên. Động lực thúc đẩy tính tích cực tự giác trong nghiên cứu khoa học của học viên không chỉ phụ thuộc vào việc nâng cao nhận thức, vào môi trường dân chủ, mà còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách đãi ngộ về vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của họ, cần có chính sách phù hợp động viên cán bộ, học viên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học. Thực chất của việc khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu khoa học là sự giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa đào tạo và sử dụng con người, vạch ra mục tiêu hoạt động cho họ, tạo ra động lực cho tính tích cực của mỗi học viên. Thực hiện chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền biểu dương khen thưởng những học viên có thành tích trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Một bài viết hay, một giải pháp tốt nếu chỉ nằm trong sách vở tài liệu sẽ ít người biết đến và tác dụng giáo dục sẽ không cao. Chính thông qua hoạt động thông tin tuyên truyền không chỉ có tác dụng nêu gương sáng cho mọi người học tập, mà bản thân những học viên có thành tích họ càng cảm thấy vinh dự, tự hào và nỗ lực phấn đấu nhiều hơn 2.2.4. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo; nâng cao chất lượng giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn quân sự của đội ngũ giảng viên * Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo theo định hướng "cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu" Nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trang bị cho học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo và trình tự sắp xếp các nội dung, các môn học trong từng giai đoạn và cả khoá học, trên cơ sở lôgíc của quá trình nhận thức. Nội dung chương trình là yếu tố cơ bản, cốt lõi của quá trình giáo dục, đào tạo. Xây dựng được nội dung chương trình giáo dục, đào tạo đúng đắn, phù hợp là một trong những cơ sở quan trọng bảo đảm cho học viên tiếp thu, lĩnh hội tốt nhất tri thức, kỹ xảo, kỹ năng trong quá trình học tập ở trường và có lượng tri thức, phương pháp cần thiết để vận dụng vào nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn, trên cương vị công tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường. Để tiếp tục đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo học viên sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay cần dựa chắc vào những căn cứ sau. Một là, căn cứ vào mục tiêu yêu cầu đào tạo và chất lượng "đầu vào" của học viên đào tạo sau đại học của Nhà trường hiện nay. Mục tiêu yêu cầu đào tạo là những tiêu chí cần đạt được của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo nhăm đáp ứng với cương vị đảm nhiệm của họ sau khi tốt nghiệp ra trường. Đó là một tổng thể bao gồm những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần thiết để học viên có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị chức trách mới, được đảm nhiệm. Hai là, căn cứ vào chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung của Đảng, Nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội nói riêng trong thời kỳ mới. Chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới là hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ CNH, HĐH. Những quan điểm, chủ trương, chính sách lớn được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương. Những yêu cầu mới về tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ được xác định trong chiến lược, là sự phản ánh những đòi hỏi về xây dựng đội ngũ cán bộ trước sự phát triển mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp và sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yêu cầu đó vừa đặt ra đòi hỏi vừa là cơ sở quan trọng của đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; trong đó, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo là khâu trọng tâm, là một trong những yếu tố cơ bản nhằm xây dựng và phát triển phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu mới. Ba là, đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo phải trên cơ sở lôgíc của quá trình nhận thức của người học Thực chất lôgíc của nhận thức là những quy luật của quá trình nhận thức; là thứ tự nội dung, các bước của quá trình nhận thức, bảo đảm nhận thức được tốt nhất các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Lôgíc của quá trình nhận thức là một cơ sở quan trọng trong đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo. Nhận thức đúng và tổ chức xây dựng nội dung, chương trình phù hợp với lôgíc của quá trình nhận thức là một yếu tố cơ bản bảo đảm cho học viên có khả năng lĩnh hội tốt nhất lượng tri thức, phương pháp, kỹ xảo, kỹ năng được truyền thụ. Ngược lại nếu nội dung, chương trình không phản ánh không đúng lôgíc của quá trình nhận thức sẽ ảnh hưởng, hạn chế rất lớn đến quá trình nhận thức của học viên. Những căn cứ trên đây là cơ sở quan trọng trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo học viên sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay nhằm bảo đảm cho học viên có khả năng tiếp thu nhanh nhất tri thức, phương pháp, kỹ xảo, kỹ năng cần thiết theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. * Tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay. Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là kết quả tác động biện chứng của nhiều yếu tố, trong đó nổi lên hai yếu tố cơ bản là: nâng cao chất lượng nội dung bài giảng và đổi mới nâng cao phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên. Nâng cao chất lượng nội dung bài giảng trước hết phải tập trung nâng cao trình độ tri thức cho đội ngũ giảng viên, bảo đảm cho giảng viên có tri thức sâu sắc về môn học, về nội dung bài giảng mà mình đảm nhiệm. Có như vậy giảng viên mới làm chủ được nội dung, mới lựa chọn được những tri thức cần thiết truyền đạt cho học viên trong mỗi bài giảng. Chất lượng bài giảng sẽ không cao, nếu giảng viên chưa nắm chắc nội dung bài giảng của mình. Một vấn đề quan trọng trong chất lượng nội dung bài giảng là phải bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Phải làm rõ lý luận đó nhằm để soi sáng, để giải quyết thực tiễn nào và thực tiễn đó đã vận dụng lý luận đến đâu. Xét cho cùng, mọi vấn đề lý luận trong một bài giảng cũng đều hướng vào giải quyết vấn đề thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Tách rời thực tiễn bài giảng sẽ trở nên trống rỗng, chết cứng và không đạt được mục đích. Tuy nhiên mỗi đối tượng khác nhau, mỗi bài giảng khác nhau việc kết hợp lý luận với thực tiễn không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy trong quá trình chuẩn bị nội dung bài giảng cũng như quá trình giảng giải phân tích, chứng minh, giảng viên cần phải lựa chọn sự kết hợp một cách hợp lý có tính thuyết phục cao. Đồng thời, trong nội dung định hướng nghiên cứu cho học viên, cần khêu gợi để học viên vận dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn có liên quan, kích thích sự tìm tòi sáng tạo của họ. Thực tiễn cuộc sống và hoạt động xây dựng, chiến đấu của quân đội ta không ngừng phát triển. Vì vậy đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi bổ sung bài giảng của mình cả về lý luận và thực tiễn. Giảng viên không nên thoả mãn với bài giảng của mình mà cần phải luôn bổ sung điều chỉnh sau mỗi lần giảng, mỗi năm học, kịp thời cập nhật thông tin để ngày càng hoàn thiện hơn. Cùng với nâng cao chất lượng nội dung bài giảng, giảng viên cần coi trọng đổi mới phương pháp giảng dạy. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng giảng dạy của giảng viên. Giảng viên có phương pháp giảng dạy tốt không những bảo đảm cho học viên tiếp thu lĩnh hội nhanh chóng tri thức mà còn kích thích tính tích cực, tự giác say mê, sáng tạo của họ. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học viên đòi hỏi giảng viên phải nắm vững và vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy trong thực hiện bài giảng của mình. Căn cứ vào đối tượng học viên, vào phương tiện dạy học, nội dung bài giảng và từng phần cụ thể để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp. Phải biết kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy trong một bài giảng. Coi trọng dạy cho học viên nắm vững phương pháp tiếp cận vấn đề, xử lý thông tin trong từng nội dung cụ thể, đặc biệt là những vấn đề trọng tâm, cốt lõi của bài giảng. Một bài giảng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau song phải bảo đảm tính lôgíc của vấn đề, phải kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn trong từng nội dung cũng như toàn bộ bài giảng. Cần coi trọng sử dụng phương pháp dạy học tích cực lôi cuốn người học tham gia vào quá trình giảng dạy. Sự tác động biện chứng của nội dung, phương pháp, phương tiện tạo nên chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên. Thiếu một trong những yếu tố trên đây hoặc thiếu sự kết hợp chặt chẽ sẽ làm cho chất lượng bài giảng không cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên cần phải coi trọng đến tất cả các yếu tố, trước hết là nâng cao trình độ tri thức chuyên môn và khả năng phương pháp sư phạm của giảng viên. Trong điều kiện Nhà trường hiện nay, để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đưa giảng viên đi bồi dưỡng, đào tạo ở các học viện, Nhà trường trong và ngoài quân đội với công tác tự đào tạo, tự bồi dưỡng giảng viên tại chỗ. Đây là giải pháp quan trọng vừa có ý nghĩa thiết thực trước mắt vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài. Đặc biệt phải hết sức coi trọng công tác bồi dưỡng giảng viên tại chỗ, thông qua các hình thức cụ thể như: tập huấn, hội thao, hội thi, học tại chức, nhất là thông qua bài giảng của giảng viên. Bằng những hình thức đó vừa thống nhất được nội dung vừa nâng cao trình độ tri thức, phương pháp sư phạm cho giảng viên, nhất là những giảng viên mới. Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là cả một quá trình. Vì vậy, phải thường xuyên coi trọng công tác tổ chức rút kinh nghiệm cho giảng viên; tổ chức đối thoại giữa giảng viên với học viên và cán bộ quản lý, qua đó để giảng viên nắm được thực chất yêu cầu của học viên và khả năng giảng dạy của mình, từ đó giảng viên tìm ra những giải pháp cụ thể, những điều chỉnh, đổi mới để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy. Tóm lại, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là một giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học nói riêng ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay. Đây là giải pháp đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ và đề cao trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng mà trước hết là cấp uỷ đảng các cấp, đội ngũ giảng viên và cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo. Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng - công tác tổ chức và công tác chính sách của Nhà trường. KẾT LUẬN 1. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học là một nội dung quan trọng trong phát huy nhân tố con người nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN cũng như trong xí nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta trong giai đoạn hiện nay. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trịi hiện nay là quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo của học viên nhằm để nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở trường cũng như trên cương vị công tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường. 2. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay có vai trò to lớn không chỉ đối với quá trình phát triển các phẩm chất năng lực của học viên, đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của họ trong quá trình giáo dục, đào tạo mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. 3. Việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay là một quá trình luôn tuân theo những quy luật và những vấn đề có tính quy luật nhất định. Trong đó những vấn đề có tính quy luật cơ bản nổi lên là, việc bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên; phụ thuộc vào điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường và phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của chính người học. 4. Những kết quả đạt được, những hạn chế trong quá trình bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị đều bắt nguồn từ sự tác động của cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo sau đại học ở Trường sĩ quan Chính trị hiện nay là một đề tài phức tạp, nhưng rất cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi sự quan tâm nghiên cứu của nhiều môn khoa học trong đó có triết học. Trong khuôn khổ đề tài tác giả mới bước đầu đặt ra và giải quyết một số vấn đề có tính chất phương pháp luận, những kết quả đạt được chỉ là những khám phá ban đầu, rất mong được sự quan tâm đóng góp của các nhà khoa học để tác giả tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và hoàn thiện hơn. PHỤ LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO