Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Gary Cahill

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gary Cahill
Cahill tập luyện cùng Anh tại World Cup 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Gary James Cahill
Ngày sinh 19 tháng 12, 1985 (38 tuổi)
Nơi sinh Dronfield, Anh
Chiều cao 1,94 m (6 ft 4 in)[1]
Vị trí Trung vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
AFC Bournemouth
Số áo 24
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
0000–2000 AFC Dronfield
2000–2004 Aston Villa
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2004–2008 Aston Villa 28 (1)
2004–2005Burnley (mượn) 27 (1)
2007Sheffield United (mượn) 16 (2)
2008–2012 Bolton Wanderers 130 (13)
2012–2019 Chelsea 191 (13)
2019–2021 Crystal Palace 45 (1)
2021–2022 AFC Bournemouth 22 (0)
Tổng cộng 459 (31)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2004–2005 U-20 Anh 3 (0)
2007 U-21 Anh 3 (0)
2010–2018 Anh 61 (5)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 13 tháng 5 năm 2018

Gary James Cahill (sinh 19 tháng 12, năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá Anh từng thi đấu ở vị trí trung vệ.

Cahill bắt đầu sự nghiệp chơi bóng của mình với đội trẻ của CLB A.F.C. Dronfield. Năm 2000 anh gia nhập học viện Aston Villa và tiếp tục sự nghiệp bóng đá của mình. Năm 2004 anh gia nhập Burnley trên một bản hợp đồng hợp đồng cho mượn dài hạn, nơi anh chơi rất hay trước khi trở về Aston Villa. Sau đó anh tiếp tục được đem cho mượn tới Bolton Wanderers. Ngày 30 tháng 5 năm 2008, anh chuyển tới Bolton Wanderers với mức giá khoảng 5 triệu bảng. Cahill đã chơi tốt cho Bolton, trở thành một trong những cầu thủ quan trọng nhất đội và là đội phó của câu lạc bộ. Anh đã ra sân 130 trận, ghi được 13 bàn thắng cho Bolton. Tháng 1 năm 2012, Cahill chuyển tới Chelsea với mức giá 7 triệu bảng, anh đã cùng Chelsea giành chức vô địch UEFA Champions League 2012, Cúp FAUEFA Europa League 2013

Cahill có quốc tịch Anh, anh có thể chọn để chơi cho đội tuyển Anh hoặc đội tuyển cộng hòa Ai-Len và cuối cùng anh đã chọn khoác áo đội tuyển Anh.

Sự nghiệp cấp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt đầu sự nghiệp

Sinh ra tại Sheffield, South Yorkshire, Cahill đã bắt đầu sự nghiệp của mình với AFC Dronfield, Sunday League đội ở Derbyshire, nơi anh đã chơi cho đến khi anh 15 tuổi. Trong thời gian của mình ở đó, một số câu lạc bộ đến xem anh thi đấu, bao gồm cả Barnsley, Sheffield Wednesday, Derby County và Aston Villa. Năm 2000, anh gia nhập Học viện Aston Villa và tiếp tục phát triển sự nghiệp của mình. Năm 2000, anh gia nhập Burnley trên một hợp đồng cho mượn kéo dài, nơi anh thi đấu tốt trước khi trở về thi đấu cho Aston Villa. Sau đó, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ quê hương Sheffield United trên một hợp đồng cho mượn ba tháng.

Ngày 30 tháng 1 năm 2008, anh ký hợp đồng với Bolton với mức giá khoảng 5 triệu bảng. Cahill đã thi đấu rất hay cho Bolton trong những năm qua, anh luôn chiếm được một vị trí vững chắc ở đội hình chính và trở thành đội phó. Anh đã được ra sân 130 lần và ghi được 13 bàn thắng cho Bolton.

Tháng 1 năm 2012, Cahill ký hợp đồng với Chelsea, phí chuyển nhượng khoảng 7 triệu bảng.

28/1/2012, anh có trận đầu tiên cho Chelsea trong trận thằng 1-0 trước QPR tại cúp FA. 18/3/2012 Anh có bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong trận thắng 5-2 trước Leicester City, trong trận đó anh đã ăn mừng với chiếc áo "PRAY 4 MUAMBA" để thể hiện sự cầu mong Fabrice Muamba khỏi bệnh sau cơn đột quỵ.

19 tháng 5 năm 2012, anh có mặt trong trận chung kết Champions League cùng với David Luiz vì cặp trung vệ TerryIvanovic bị treo giò. Anh đã có 1 trận đấu khá thành công và đã cùng Chelsea lần đầu tiên vô địch Champions League sau khi giành chiến thắng trên loạt sút luân lưu trước Bayern Munich.

Cuối mùa giải 2018–19, hợp đồng của Cahill với Chelsea hết hạn, và anh rời câu lạc bộ.

Crystal Palace

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi rời Chelsea, Cahill ký hợp đồng 2 năm với Crystal Palace ngày 5 tháng 8 năm 2019, tái hợp với cựu thuyền trưởng tuyển Anh, Roy Hodgson.[2]

AFC Bournemouth

[sửa | sửa mã nguồn]

Cahill ký hợp đồng với câu lạc bộ đang chơi tại Championship AFC Bournemouth vào 20 tháng 8 năm 2021 có thời hạn 1 năm.[3]

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Cahill là một cầu thủ quốc tế, anh có đủ điều kiện để chơi cho một trong hai Đội tuyển Anh hoặc Đội tuyển cộng hòa Ai-Len,nhưng anh đã chọn để chơi cho Đội tuyển Anh. Ngày 6 tháng 2 năm 2007, anh có trận ra mắt cho U21 Anh, anh được thay vào trong trận đấu với Tây Ban Nha. Ngày 4 tháng 6 năm 2009, Cahill được gọi lên đội tuyển Anh cho trận đấu với Kazakhstan. Tuy nhiên, anh chỉ lần đầu ra mắt ngày 3 tháng 9 năm 2010. Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Cahill có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển quốc gia trong trận giao hữu với Ghana. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong trận đấu với Bulgaria ở vòng loại Euro 2012.

Sau kì World Cup 2018 thành công của đội tuyển Anh (xếp hạng tư chung cuộc giải đấu), Gary Cahill tuyên bố chia tay đội tuyển quốc gia sau 8 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 61 trận và ghi được 5 bàn thắng.

Thống kê

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 19 tháng 5 năm 2018.[4]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải ngoại hạng Cúp quốc gia1 Cúp liên đoàn1 Châu Âu2 Khác Tổng cộng
Giải ngoại hạng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng
Aston Villa
2004–05 Premier League 0 0 0 0 0 0
2005–06 Premier League 7 1 0 0 1 0 8 1
2006–07 Premier League 20 0 1 0 0 0 21 0
2007–08 Premier League 1 0 0 0 1 0 2 0
Tổng cộng 28 1 1 0 2 0 31 1
Burnley (mượn) 2004–05[5] Championship 27 1 4 0 1 0 32 1
Sheffield United (mượn) 2007–08[6] Championship 16 2 16 2
Bolton Wanderers
2007–08 Premier League 13 0 4 0 17 0
2008–09 Premier League 33 3 0 0 1 0 34 3
2009–10 Premier League 29 5 2 1 3 1 34 7
2010–11 Premier League 36 3 5 0 0 0 41 3
2011–12 Premier League 19 2 0 0 2 0 21 2
Tổng cộng 130 13 7 1 6 1 4 0 147 15
Chelsea 2011–12 Premier League 10 1 4 1 5 0 19 2
2012–13 Premier League 26 2 4 0 4 2 9 2 2 0 45 6
2013–14 Premier League 30 1 3 0 3 0 11 1 47 2
2014–15 Premier League 36 1 2 1 4 0 6 1 48 3
2015–16 Premier League 23 2 4 1 2 0 7 1 1 0 37 4
2016–17 Premier League 37 6 3 0 3 2 43 8
2017–18 Premier League 27 0 6 0 3 0 6 0 1 0 43 0
Tổng cộng 189 13 26 3 19 4 44 5 4 0 282 25
Tổng cộng sự nghiệp 390 30 38 4 28 5 48 5 4 0 508 44
1Bao gồm FA CupLeague Cup.
2Bao gồm UEFA Super CupFIFA Club World Cup
3Bao gồm FA Community Shield

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 28 tháng 6 năm 2018.[7]
Đội tuyển quốc gia Anh
Năm Số lần ra sân Số bàn thắng
2010 1 0
2011 6 1
2012 5 1
2013 9 0
2014 12 1
2015 7 0
2016 12 1
2017 5 0
2018 3 1
Tổng cộng 61 5

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Tỷ số của Anh viết trước.
# Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 2 tháng 9 năm 2011 Sân vận động Quốc gia Vasil Levski, Sofia, Bulgaria  Bulgaria
1–0
3–0
Vòng loại Euro 2012
2 29 tháng 2 năm 2012 Sân vận động Wembley, London, Anh  Hà Lan
1–2
2–3
Giao hữu
3 30 tháng 5 năm 2014 Sân vận động Wembley, London, Anh  Peru
2–0
3–0
Giao hữu
4 11 tháng 11 năm 2017 Sân vận động Wembley, London, Anh  Scotland
3–0
3–0
Vòng loại World Cup 2018
5 2 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Wembley, London, Anh  Nigeria
1–0
2–1
Giao hữu

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Chelsea FC

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Chelsea FC Player Profile”. Premier League. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ “Gary Cahill: Crystal Palace sign former Chelsea defender”. BBC Sport. ngày 5 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2019.
  3. ^ “Gary Cahill: Bournemouth sign former England centre-back on one-year deal”. BBC Sport. ngày 20 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  4. ^ “Gary Cahill | Football Stats | Chelsea | Age 28”. Soccer Base. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2014.
  5. ^ “Trận thi đấu của Gary Cahill trong 2004/2005”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  6. ^ “Trận thi đấu của Gary Cahill trong 2007/2008”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  7. ^ Gary.html “Gary Cahill” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]