Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Hilary Duff

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hilary Duff
Thông tin nghệ sĩ
Sinh28 tháng 9, 1987 (37 tuổi)
Nguyên quán Houston, Texas, Mỹ
Thể loạiPop, pop-rock, điện tử, dance, Electro-Pop
Nghề nghiệpDiễn viên, ca sĩ, nhạc sĩ, thiết kế thời trang, người mẫu
Nhạc cụHát
Năm hoạt động1998 – nay (diễn viên)

2000 – nay (ca sĩ)

Hãng đĩaHollywood
Buena Vista
Walt Disney
WebsiteHilary Duff

Hilary Erhard Duff (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1987) là ca sĩ kiêm diễn viên người Mỹ. Cô sinh ra tại Houston, Texas. Sau khi tham gia loạt phim truyền hình Lizzie McGuire, cô còn đóng nhiều phim như Cheaper by the Dozen (2003), The Lizzie McGuire Movie (2003), và A Cinderella Story (2004). Hilary còn phát triển trong lĩnh vực âm nhạc, cô đã phát hành 4 album, và sắp tới sẽ giới thiệu album mới nhất.

Tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Hilary Duff sinh ra ở Houston, Texas là con gái thứ hai của Bob Erhard Duff - chủ một hệ thống bán đồ gia dụng và Susan Colleen Duff - nội trợ. Hilary và chị gái Haylie Duff cùng học diễn kịch. Họ giành được các giải thương địa phương khác nhau. Ở tuổi 8 và 6, chi em nhà Duff tham gia vở ballet The Nutcracker Suite với Columbus Ballet MetSan Antonio. Chị em họ ngày càng hứng thú với ý tưởng diễn xuất chuyên nghiệp và cuối cùng chị em Duff cùng mẹ đã đi đến California. Ông Bob thì ở lại Houston để chăm lo công việc kinh doanh.

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước 2000

[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các vai diễn đầu tiên của Hilary đều là những vai nhỏ. Khởi đầu là sự xuất hiện trong bộ phim True Women (1997) của hãng Hallmark Entertainment và phim Playing by Heart (1998). Sau đó Hil được nhận vai Wendy trong phim Casper Meets Wendy. Với nhiều vai diễn khác, Hilary nhận được giải thưởng Best Performance in a TV Movie or Pilot (nữ diễn viên phụ)

Lizzie McGuire

[sửa | sửa mã nguồn]

Quản lý và mẹ Hilary đã khích lệ cô thử vai trong bộ phim hài gia đình Lizzie McGuire. Hilary được chọn cho vai chính. Kể từ đây Hilary bắt đầu nổi tiếng, phim Lizzie McGuire có tới 2,3 triệu người xem mỗi tập.

Diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • The Lizzie McGuire Movie: bản phim điện ảnh của phim truyền hình Lizzie McGuire đã giúp Hilary trở thành thần tượng của tuổi teen.
  • Cheaper by the Dozen I, II: nhờ vào nhiều thành công Hilary đã được chọn đóng vai một trong 12 người con cùng diễn viên hài nổi tiếng Steve Martin.
  • A Cinderella Story: năm 2004 cùng với Chad Michael Murray ngôi sao trẻ đã tạo nên một chuyện tình lãng mạn như nàng Lọ Lem.
  • Raise Your Voice: bộ phim về đề tài âm nhạc rất cảm động.
  • The Perfect Men: bộ phim gia đình về người mẹ độc thân và 2 người con, Hilary đóng vai người con tạo ra một người đàn ông hoàn hảo cho mẹ. Từng trình chiếu ở Việt Nam với tên Mr. Hoàn hảo.
  • Material Girl: phim nay còn có sự tham gia của người chị Haylie. Không được đánh giá cao, được xem như là sai lầm trong sự nghiệp diễn xuất của Hilary.
  • Footfight!: Hilary lồng tiếng cho nhân vật Sunshine Goodness.
  • War Inc: đóng vai một ngôi sao nhạc pop của châu Âu cùng với diễn viên John Cusack.

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Single đầu tiên của Hilary là I can't Wait trong nhạc phim của Lizzie McGuire (2002)
  • Santa Clause Lane: album đầu tiên của Hilary. Đây là album tập hợp nhiều ca khúc giáng sinh như Santa Clause lane, Jingle Bell Rock, Last Christmas...
  • Metamorphosis: album thứ hai mang tên một ca khúc trong album. Ca khúc nổi bật của album này là So yesterday đã có tên trong top ten hit lúc đó.
  • Hilary Duff: Hilary cho ra album mang chính tên mình. Có các ca khúc như: Fly, Someone's watching over me...
  • Most Wanted: album tổng hợp những bài hát hay và có thêm 4 bài mới là Wake up, Beat of my heart, Super girlBreak my heart.
  • 4ever: Album chỉ được phát hành tại Ý.
  • Dignity: album mới nhất phát hành ngày 3 tháng 4 tại Mỹ. Album đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng U.S. Billboard 200, đứng thứ một trong bảng xếp hạng Japan Oricon Weekly International Albums Chart, đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng UK Albums Chart và đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng Canadian Albums Chart. Album đã được công nhận đĩa vàng. Trong các single như "With Love", "Stranger", "Play With Fire", Hilary đã thay đổi hình tượng của mình, không còn là cô gái teen mà đã trưởng thành. Năm 2007, Hilary Duff vừa tròn 20 tuổi.
  • Best Of Hilary Duff: Album tổng hợp thứ hai của Hilary Duff, là album cô làm để chia tay với hãng đĩa của mình. Album có thêm 2 bài hát mới là "Reach Out" và "Holiday". Với album này Hilary tiếp tục khẳng định con đường âm nhạc mới của mình - trở thành 1 người phụ nữ quyến rũ trong âm nhạc. Album chỉ bán được 5500 bản trong tuần đầu phát hành tại Mỹ.

Cuộc sống riêng

[sửa | sửa mã nguồn]

Hilary bắt đầu hẹn hò với ca sĩ Aaron Carter. Họ đã gặp nhau trong phim Lizzie McGuire mà Aaron tham gia 1 tập phim. Họ hẹn hò trong 1 năm rưỡi sau đó họ chia tay.

Từ năm 2004, Hilary quen với giọng ca chính của nhóm nhạc rock Good Charlotte - Joel Madden. Cuối năm 2006 quan hệ của Hilary và Joel kết thúc

Hilary Duff còn tham gia nhiều hoạt động từ thiện. Hilary là thành viên của tổ chức từ thiện Kids with a Cause.

Hilary Duff bắt đầu hẹn hò với cầu thủ khúc côn cầu Mike Comrie vào đầu năm 2007. Họ đính hôn vào ngày 19/02/2010 và kết hôn vào ngày 14/08/2010 sau hơn 2 năm hẹn hò.

Công việc khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Hilary có một nhãn hiệu thời trang mang tên "Stuff by Duff" dành cho lứa tuổi teen.

Gần đây Hilary còn cho ra mắt nước hoa "With love... Hilary Duff".

Các vai diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Phim Vai diễn Doanh thu trên toàn thế giới
1998 Casper Meets Wendy Wendy n/a
1999 The Soul Collector Ellie n/a
2001 Human Nature Young Lila Jute $705.308
2001-2004 Lizzie McGuire Lizzie McGuire
2002 Cadet Kelly Kelly Collins
2003 Agent Cody Banks Natalie Connors $58.795.814[1]
The Lizzie McGuire Movie Lizzie McGuire/Isabella Parigi $55.534.455[2]
Cheaper by the Dozen Lorraine Baker $190.212.113[3]
2004 A Cinderella Story Samantha Montgomery $74.628.141[4]
Raise Your Voice Terri Fletcher $13.573.284[5]
In Search of Santa Crystal
2005 The Perfect Man Holly Hamilton $19.770.475[6]
Cheaper by the Dozen 2 Lorraine Baker $129.154.341[7]
2006 Material Girls Tanzie Marchetta $12.783.677[8]
2008 Foodfight! Sunshine Goodness TBA
War, Inc. Yonica TBA
2009 Greta Greta
Năm Album Vị trí trên bảng xếp hạng
Hoa Kỳ Anh Canada Úc Ý
2002 Santa Claus Lane
154
2003 Metamorphosis
1
69
1
19
-
2004 Hilary Duff
2
1
6
-
2005 Most Wanted
1
31
1
3
-
2006 4Ever
14
2007 Dignity
3
25
3
17
8
2009 Best Of Hilary Duff
125
-
86
-
41

Các đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Bài hát Album
2003 "Tell Me a Story (About the Night Before)" Santa Claus Lane
2003 "Santa Claus Lane" Santa Claus Lane
2003 So Yesterday Metamorphosis
2004 "Come Clean" Metamorphosis
2004 "Why Not" Metamorphosis
2004 "Little Voice" Metamorphosis
2004 "Fly" Hilary Duff
2004 "Someone's Watching over Me" Hilary Duff
2004 "The Getaway" Hilary Duff
2004 "I Am" Hilary Duff
2004 "Weird" Hilary Duff
2005 "Wake Up" Most Wanted
2006 "Beat of My Heart" Most Wanted
2006 "Supergirl" Most Wanted
2006 "Play with Fire" Dignity
2007 "With Love" Dignity
2007 "Stranger" Dignity
2009 "Reach Out" Best Of Hilary Duff

Single nhạc phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Bài hát Phim
2003 "Santa Claus Lane" The Santa Clause 2
2003 "What Christmas Should Be"

(trích từ album Santa Claus Lane)

Cheaper by the Dozen
2003 "Why Not" The Lizzie McGuire Movie
2004 "Our Lips Are Sealed"
(với Haylie Duff)
A Cinderella Story
2008 "Some One's Watching Over Me" Raise Your Voice

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích và tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ http://boxofficemojo.com/movies/?id=agentcodybanks.htm
  2. ^ “The Lizzie McGuire Movie (2003)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ “Cheaper by the Dozen (2003)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ “A Cinderella Story (2004)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  5. ^ “Raise Your Voice (2004)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  6. ^ “The Perfect Man (2005)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  7. ^ “Cheaper by the Dozen 2 (2005)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.
  8. ^ “Material Girls (2006)”. Truy cập 1 tháng 3 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]