Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Wolverhampton Wanderers F.C.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Wolverhampton Wanderers
Tên đầy đủWolverhampton Wanderers F.C.
Biệt danhWolves (Bầy sói)
The Wanderers
Thành lập1877; 147 năm trước (1877) với tên gọi St. Luke's
SânSân vận động Molineux, Wolverhampton
Sức chứa32.050[1]
Chủ sở hữuFosun International
Chủ tịchJeff Shi[2]
Huấn luyện viênAnh Gary O'Neil
Giải đấuGiải bóng đá Ngoại hạng Anh
2023–24Ngoại hạng Anh, thứ 14 trên 20
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Mùa giải hiện nay

Câu lạc bộ bóng đá Wolverhampton Wanderers (Wolverhampton Wanderers Football Club), cũng thường được gọi tắt là Wolves là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Wolverhampton, vùng West Midlands của Anh và hiện đang chơi ở Premier League. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1877. Trong lịch sử, Wolves đã có những ảnh hưởng lớn. Trong đó đáng chú ý nhất là việc họ là một trong những thành viên sáng lập của Liên đoàn Bóng đá Anh, cũng như có đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập ra các Cúp châu Âu, sau này trở thành UEFA Champions League.

Wolves đã giành FA Cup hai lần trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Wolves củng cố danh tiếng của họ khi được dẫn dắt bởi huấn luyện viên huyền thoại và cũng là cựu cầu thủ Stan Cullis. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Wolves bước vào thời kì hoàng kim khi Vô địch First Divison (giải đấu tương đương Ngoại hạng Anh hiện nay) ba lần và FA Cup hai lần trong khoảng thời gian từ 1949 đến 1960. Đây cũng là thời điểm mà các Cup châu Âu được sáng lập. Báo chí Anh tung hô Wolves là "Champions of the World" sau những chiến thắng của họ trước các CLB hàng đầu châu Âu và thế giới như Nam Phi, Racing, Spartak Moscow, và Honvéd cùng một số CLB khác.

Sau thời hoàng kim của Stan Cullis, Wolves có dấu hiệu đi xuống mặc dù họ đã lọt vào chung kết UEFA Cup năm 1972 và đối đầu với Tottenham Hotspur, và giành League Cup vào năm 1974 dưới thời HLV Bill McGarry và một lần nữa vào năm 1980 dưới thời HLV John Barnwell. Tuy nhiên, bước vào đầu thập niên 80, Wolves rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và rơi liên tiếp từ First Divison (Hạng nhất) xuống Fourth Division (Hạng tư) năm 1986. Tuy vậy Wolves đã hồi sinh ngay lập tức khi thăng hai hạng liên tiếp vào năm 1988, 1989 dưới thời HLV Graham Turner cùng huyền thoại Steve Bull, người ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử CLB. Wolves còn vô địch Shepra Van Trophy (giải đấu tương đương Football League Trophy ngày nay) vào năm 1988. Năm 2003 Wolves lần đầu tiên được thi đấu tại Premier League dưới thời HLV Glenn Hoddle nhưng chỉ được một mùa giải họ đã lập tức phải xuống hạng. Phải tới khi Mick McCarthy lên năm quyền, Bầy Sói mới trở lại được hạng đấu cao nhất của bóng đá xứ sở sương mù tại mùa giải 2009-10. Đến cuối mùa 2011-12, Wolves đã nhận tấm vé xuống hạng sau 3 mùa ở Premier League. Mùa 2012-13, Wolves thi đấu bết bát ở giải hạng nhất Anh và tiếp tục nhận vé xuống hạng nhì. Mùa 2013-14, Wolves vô địch giải hạng nhì Football League One và thăng lại hạng nhất. Đến mùa giải 2017-18 cùng sự xuất hiện của HLV Nuno Espírito Santo, CLB thi đấu thăng hoa và xuất sắc giành ngôi vị cao nhất của giải Hạng nhất Anh, để rồi sau đó quay trở lại Premier League sau 6 năm vắng bóng.

Cuối mùa giải 2020/21, Wolves đã chia tay với HLV Nuno Espírito Santo sau 4 năm gắn bó, sau đó bổ nhiệm Bruno Lage làm HLV trưởng mới của đội từ mùa giải 2021/22.

Sân vận động

[sửa | sửa mã nguồn]
Sân vận động Molineux

Wolverhampton Wanderers đã chơi tại Molineux, Whitmore Reans, kể từ năm 1889. SVĐ trước đây của CLB nằm tại vùng Blakenhall, và mặc dù không còn dấu hiệu của mặt sân nữa nhưng một con đường gần đó vẫn được gọi là Wanderers Avenue. Tên Molineux bắt nguồn từ Benjamin Molineux, một thương gia địa phương. Khu đất của ông sau này đã được sử dụng để xây nhiều cơ sở giải trí cho cộng đồng. Nhà máy bia Northampton đã mua lại mảnh đất đó vào năm 1889. Sau đó họ đã cho câu lạc bộ bóng đá của thành phố thuê nó để sử dụng làm sân nhà vào năm 1889. Sau khi cải tạo lại SVĐ, trận đấu đầu tiên trên sân đã được tổ chức vào ngày 7 tháng 9 năm 1889. Năm 1953, sân vận động đã trở thành một trong những sân đầu tiên được cài đặt bóng đèn pha, với chi phí ước tính khoảng 10000 bảng. Trận đấu đầu tiên của Câu lạc bộ được tổ chức vào ngày 30 tháng 9 năm 1953, khi Wolves giành chiến thắng 3-1 trước Nam Phi. Việc bổ sung các bóng đèn pha đã giúp cho Molineux trở thành nơi để tổ chức một loạt các giao hữu giữa tuần với các đội từ khắp nơi trên thế giới. Trong những ngày trước khi hình thành các Cup châu Âu và các cuộc thi câu lạc bộ quốc tế, các trận đấu được đánh giá có chất lượng cao với nhiều khán giả và sự quan tâm đến từ đài BBC khi họ thường truyền hình trực tiếp sự kiện tại đó. Khán dài phía nam cũ tại Molineux cũng là khán đài lớn thứ hai trong lịch sử chỉ sau Holte End của Aston Villa, cả hai đều thường xuyên có các đám đông vượt quá 30.000 người.Vào những năm 1991-1993, SVĐ được phát triển hiện đại, với sức chứa khoảng 29.303 (778 chỗ ngồi tạm thời).

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình hiện tại

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 31 tháng 8 năm 2024[3]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM Bồ Đào Nha José Sá
2 HV Cộng hòa Ireland Matt Doherty
3 HV Algérie Rayan Aït-Nouri
4 HV Uruguay Santiago Bueno
5 TV Gabon Mario Lemina (đội trưởng)
6 TV Mali Boubacar Traoré
7 TV Brasil André
8 TV Brasil João Gomes
9 Na Uy Jørgen Strand Larsen (mượn từ Celta Vigo)
10 TV Bồ Đào Nha Daniel Podence
11 Hàn Quốc Hwang Hee-chan
12 Brasil Matheus Cunha
14 HV Colombia Yerson Mosquera
15 HV Anh Craig Dawson
18 Áo Saša Kalajdžić
Số VT Quốc gia Cầu thủ
19 Bồ Đào Nha Rodrigo Gomes
20 TV Anh Tommy Doyle
21 TV Tây Ban Nha Pablo Sarabia
22 HV Bồ Đào Nha Nélson Semedo
24 HV Bồ Đào Nha Toti
25 TM Anh Daniel Bentley
26 Bồ Đào Nha Carlos Forbs (mượn từ Ajax)
27 TV Pháp Jean-Ricner Bellegarde
29 Bồ Đào Nha Gonçalo Guedes
30 Paraguay Enso González
31 TM Anh Sam Johnstone
34 TV Anh Luke Cundle
37 HV Brasil Pedro Lima
40 TM Wales Tom King
- HV Pháp Bastien Meupiyou

Cầu thủ cho mượn

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
17 HV Tây Ban Nha Hugo Bueno (tại Hà Lan Feyenoord đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
23 Bồ Đào Nha Chiquinho (tại Tây Ban Nha Mallorca đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
28 TV Zimbabwe Tawanda Chirewa (tại Anh Derby County đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
32 TV Cộng hòa Ireland Joe Hodge (tại Anh Huddersfield Town đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
35 HV Hà Lan Ki-Jana Hoever (tại Pháp Auxerre đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
56 HV Hà Lan Nigel Lonwijk (tại Anh Huddersfield Town đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
63 Cộng hòa Ireland Nathan Fraser (tại Bỉ Zulte Waregem đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
77 TV Wales Chem Campbell (tại Anh Reading đến tháng 1 năm 2025)
87 Jamaica Tyler Roberts (tại Anh Fylde đến tháng 1 năm 2025)
HV Cộng hòa Dân chủ Congo Marwin Kaleta (tại Scotland Motherwell đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)
Bồ Đào Nha Fábio Silva (tại Tây Ban Nha Las Palmas đến ngày 30 tháng 6 năm 2025)

Thành tích

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử hạng đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Wolverhampton Wanderers là một trong những thành viên sáng lập của Football League vào năm 1888. Mùa giải 2022-23 là mùa giải thứ 124 của Wolves ở một giải đấu thuộc hệ thống Football League. Wolves đã có 117 mùa giải thi đấu ở 2 hạng đấu cao nhất của bóng đá Anh cho đến thời điểm này. Đội bóng có 4 giai đoạn chơi bóng ở hạng thứ 3 nhưng chúng đều chỉ kéo dài trong một mùa giải, Wolves giành quyền thăng hạng lên hạng hai ở 3 trong số 4 mùa giải đó, và phải xuống hạng 4 ở mùa còn lại. Wolves đã có 2 mùa giải chơi ở giải hạng 4 trong thập niên 80.

  • Tổng số mùa giải thi đấu ở hạng đấu cao nhất: 69 (có tính mùa 2023–24)
  • Tổng số mùa giải thi đấu ở hạng nhì: 50
  • Tổng số mùa giải thi đấu ở hạng ba: 4
  • Tổng số mùa giải thi đấu ở hạng tư: 2
  • Quãng thời gian dài nhất thi đấu liên tục ở hạng nhất: 26 (1932–1965; các giải đấu bị tãm hoãn từ 1939-46 do Chiến tranh Thế giới lần thứ 2)
  • Quãng thời gian dài nhất thi đấu liên tục ở hạng nhì: 14 (1989–2003)
  • Quãng thời gian dài nhất thi đấu liên tục ở hạng ba: 1 (1923–24; 1985–86; 1988–89; 2013–14)
  • Quãng thời gian dài nhất thi đấu liên tục ở hạng tư: 2 (1986–1988)

Lịch sử các huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Kình địch và Cổ động viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Kình địch

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại kình địch của Wolves là đối thủ ở cùng khu vực Black Country, West Bromwich Albion. Hai đội đã cạnh tranh quyết liệt với nhau kể từ khi các giải đấu bóng đá xuất hiện vào cuối thế kỉ 19. Wolves cũng có một kình địch khác ở cùng khu vực là Walsall, nhưng vì đội bóng này thường xuyên ngụp lặn ở các giải hạng dưới nên không có nhiều cơ hội để hai đội chạm trán với nhau, Wolves đã thắng 3-0 trong lần gần nhất gặp nhau vào năm 2014.

Ngoài ra, Aston VillaBirmingham City cũng có thể coi là những kình địch của Wolves, cả ba đội đều nằm ở khu vực Tây Midlands và khoảng cách địa lý giữa họ cũng không xa là bao.

Cổ động viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Wolves không chỉ có những cổ động viên ở Anh, họ còn có các hội cổ động viên lớn ở các nước trên thế giới như Úc, Mỹ, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Đức, Cộng hòa Ireland, Malta, Iceland, Na Uy, Việt NamThái Lan.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Premier League Handbook 2018–19”. Premier League. ngày 30 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ “Jeff Shi”. Wolverhampton Wanderers F.C. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2019.
  3. ^ “Team”. Wolverhampton Wanderers F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]