Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Tại Việt Nam, Quỹ Tín dụng nhân dân là tổ chức hoạt động theo mô hình hợp tác xã trong lĩnh vực cho vay vốn ở địa bàn các xã (phường). Đây là kênh huy động vốn hiệu quả của Nhà nước đặc biệt là tại các vùng nông thôn nơi nguời dân chưa có thói quen giao dịch với ngân hàng Hiệp hội quỹ tín dụng nhân dân Việt Nam (VAPCF) được thành lập năm 2005 Quá trình phát triển Quỹ tín dụng nhân dân của Việt Nam Từ những năm đầu 90 của thế kỷ trước, Chính phủ đã có chủ trương nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của các hợp tác xã tín dụng ở nước ta và các mô hình tổ chức, hoạt động của loại hình Quỹ tín dụng phát triển mạnh ở một số nước phát triển trên thế giới để xúc tiến xây dựng, thiết lập một mô hình tài chính vĩ mô là tổ chức tín dụng hợp tác mới, thích hợp với tình hình kinh tế thị trường ở nông thôn. Phát triển hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Năm 1993, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ "Ðề án thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)" ở Việt Nam và ngày 27-7-1993, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 390/TTg cho phép triển khai đề án thí điểm thành lập Hệ thống QTDND. Ðây là một trong những bước đi đầu tiên cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Ðảng, Nhà nước đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi thực tiễn ở nông thôn. Sau bảy năm thí điểm, gần hai năm củng cố chấn chỉnh, đến cuối năm 2001, toàn hệ thống 906 QTDND cơ sở với tổng nguồn vốn là 2.959 tỷ đồng, tổng dư nợ là 2.559 tỷ đồng phục vụ hơn 800.000 thành viên và Quỹ tín dụng trung ương có 24 chi nhánh với tổng nguồn vốn hoạt động là 911 tỷ đồng, tổng dư nợ hơn 728 tỷ đồng. Hiện nay, mô hình QTDND đang được tiếp tục phát triển tại các tỉnh, thành phố và hoạt động của các QTDND cơ sở đã giúp các hộ gia đình mở rộng sản xuất, kinh doanh, phát triển các ngành nghề, dịch vụ, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho thành viên, góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ðại bộ phận thành viên đều thể hiện vai trò trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với hoạt động của QTDND, chấp hành nghiêm túc các quy định, chế độ và ý thức xây dựng QTDND. Số lượng QTDND hoạt động tốt ngày càng tăng, số QTDND hoạt động yếu kém ngày càng giảm đi. Chỉ tính từ cuối năm 2006 đến nay có thêm bốn tỉnh mới tiến hành thành lập QTDND là Quảng Ninh, Cần Thơ, Hậu Giang và Thái Nguyên. Ðặc biệt, từ thực tiễn và kết quả hoạt động chung của toàn hệ thống, ngày 16-11-2007, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1563/QÐ-TTg về phê duyệt phương án bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ tín dụng trung ương lên 2.000 tỷ đồng. Ðến tháng 6-2011, cả nước đã có 1.071 QTDND cơ sở hoạt động tại 56/63 tỉnh, thành phố với gần 1,7 triệu thành viên là các hộ gia đình; tổng nguồn vốn hoạt động lên đến hơn 31.742 tỷ đồng (không kể Quỹ tín dụng trung ương), tăng 13% so với 31-10-2010 và tăng 24,3% so với cùng kỳ năm ngoái (30-6-2010). Tính trung bình tổng nguồn vốn hoạt động của mỗi QTDND cơ sở khoảng 30 tỷ đồng, phục vụ trung bình gần 1.700 thành viên đại diện hộ gia đình. Theo tính toán ở thị trường nông thôn với địa bàn của một xã thì lượng vốn từ 20 đến 30 tỷ đồng như vậy sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo thêm nguồn lực mạnh mẽ hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Trong thực tế, có rất nhiều QTDND cơ sở đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế ở địa phương như: QTDND Cương Gián ở Hà Tĩnh đã trực tiếp hỗ trợ cho vay hàng trăm người đi xuất khẩu lao động, hay QTDND cao-su Ðác Lắc, QTDND Xuyên Mộc ở Bà Rịa - Vũng Tàu đã hỗ trợ hàng nghìn thành viên phát triển sản xuất, số vốn của QTDND này lên đến hàng trăm tỷ đồng; hoặc như QTDND Chương Mỹ, QTDND Dương Nội ở Hà Tây (trước đây), Ðình Bảng (Bắc Ninh) lại là mô hình hỗ trợ hiệu quả cho phát triển ngành nghề, dịch vụ. Thực tế ở nhiều nơi, nhiều vùng nhờ có QTDND nên thành viên, các hộ gia đình có điều kiện xóa đói, giảm nghèo hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho địa phương chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng trong nông nghiệp... Mặt khác, với tư cách là một doanh nghiệp, QTDND đóng góp một cách đáng kể các khoản thuế hằng năm cho ngân sách địa phương, trực tiếp tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở xã, phường hỗ trợ các hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Từ ngày 24-6-2013, Quỹ Tín dụng Trung ương (QTDT.Ư) và hệ thống mạng lưới đã chính thức chuyển sang hoạt động theo tên gọi mới là Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam.   Ðây là bước tiến lớn trong việc tái cơ cấu một bước tổ chức bộ máy của hệ thống QTDT.Ư trên cơ sở sửa đổi, điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ theo hướng phát triển thành một đơn vị đầu mối mạnh về tài chính, có năng lực tốt về chuyên môn để hỗ trợ sự vận hành lành mạnh, an toàn của đơn vị thành viên và hệ thống, tạo sự gắn kết bền vững. Ðẩy lùi "tín dụng đen" tại nông thôn Sau 12 năm triển khai thực hiện củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân (QTDND) theo Chỉ thị 57-CT/TW của Bộ Chính trị, hệ thống QTDND đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, phát triển lớn mạnh về cả số lượng lẫn chất lượng, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, hạn chế "tín dụng đen" tại nông thôn. Trong những năm đầu hoạt động, hệ thống QTDND đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ thành viên là các cá nhân, hộ gia đình ở vùng nông thôn phát triển sản xuất, mở mang dịch vụ ngành nghề, đồng thời góp phần từng bước đẩy lùi các hình thức hoạt động "tín dụng đen" ở nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, hệ thống QTDND cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: cho vay sai đối tượng, vượt chỉ tiêu an toàn quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), cho vay ngoài thành viên, ngoài địa bàn xã, phường, các QTDND cho vay lẫn nhau, huy động vốn ngoài địa bàn vượt khả năng của Quỹ;... Trước yêu cầu khắc phục thực trạng yếu kém nhằm phát triển hệ thống QTDND để tiếp tục phát huy vai trò ngày càng tích cực đối với sự nghiệp CNH, HÐN nông nghiệp, nông thôn, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 57/CT-TW ngày 10-10-2000 về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Sau hơn 12 năm tập trung nỗ lực triển khai thực hiện Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị, công tác củng cố, chấn chỉnh hoạt động QTDND đã thu được những kết quả quan trọng. QTDT.Ư đã hoàn thành việc chuyển đổi mô hình hệ thống QTDND từ ba cấp thành hai cấp đúng thời gian quy định và góp phần tích cực cho việc củng cố, chấn chỉnh hoạt động của các QTDND cơ sở, ổn định hoạt động của toàn hệ thống. Ðến cuối năm 2002, số lượng QTDND cơ sở yếu kém giảm từ 371 xuống còn 56 (giảm 84,91%); số lượng QTDND hoạt động bình thường tăng từ 589 lên 827 (tăng 40,41%); số lượng QTDND quá yếu kém không thể củng cố chấn chỉnh được giảm từ 67 xuống còn 5 (giảm 92,54%), tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống giảm từ 3,73% xuống còn 1,36% trên tổng dư nợ... Từ sau khi hoàn thành việc chuyển sang mô hình hai cấp, hoạt động của QTDT.Ư đã có những bước chuyển biến tích cực. Tổng nguồn vốn hoạt động của QTDT.Ư tính đến ngày 31-12-2012 đạt 14.871 tỷ đồng, tăng gần 15 lần so với năm 2001. Vốn huy động đạt 9.297,5 tỷ đồng, chiếm khoảng 60% tổng nguồn vốn, tăng khoảng 18 lần so với năm 2001. Tổng dư nợ cho vay đạt 11.132 tỷ đồng, gấp khoảng 14 lần so với năm 2001; nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ. Bên cạnh đó, QTDT.Ư thực hiện tốt chức năng điều hòa vốn cho hệ thống QTDND. Bản thân các QTDND cơ sở sau thực hiện củng cố, chấn chỉnh theo Chỉ thị 57 cũng đã ý thức hơn trong việc tham gia điều hòa vốn nội bộ, tăng cường liên kết hệ thống, gắn bó hơn với các chi nhánh QTDT.Ư, vì vậy đã đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại chỗ để mở rộng cho vay và gửi điều hòa vốn lên QTDT.Ư. QTDT.Ư cũng đã hỗ trợ khả năng thanh khoản kịp thời cho các QTDND cơ sở trong những trường hợp cần thiết, góp phần tích cực bảo đảm an toàn cho hoạt động của hệ thống QTDND. Ðồng thời, phát huy tốt vai trò tổ chức đầu mối liên kết kinh tế cho hệ thống QTDND. Chuyển sang mô hình mới Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hệ thống QTDND vẫn còn gặp một số hạn chế nhất định. Hoạt động của toàn hệ thống còn đơn điệu, chưa khai thác hết tiềm năng, các hoạt động của QTDND cơ sở chủ yếu là huy động và cho vay. Riêng đối với QTDT.Ư, tuy triển khai nhiều sản phẩm, dịch vụ tiện ích, song so với yêu cầu phát triển hội nhập còn hạn chế, chưa hỗ trợ nhiều cho các QTDND trong mở rộng, khai thác tiềm năng nội lực, nhất là các tiện ích ngân hàng hiện đại. Trước thực trạng đó, QTDT.Ư đã xác định phải cơ cấu lại hoạt động, trong đó có việc chuyển đổi mô hình theo hướng năng  động, linh hoạt hơn. Trên cơ sở đề xuất của QTDT.Ư, ngày 4-6 vừa qua, Thống đốc NHNN đã ký Giấy phép số 166/GP-NHNN về việc thành lập Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi từ hệ thống QTDND. Theo đó, từ ngày 24-6-2013, QTDT.Ư và hệ thống mạng lưới đã chính thức chuyển sang hoạt động theo tên gọi mới là Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam. Hoạt động của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam là sự kế thừa chức năng, nhiệm vụ của QTDT.Ư nhưng được nâng lên một tầm cao mới, qua đó khẳng định rõ hơn vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã là ngân hàng của các QTDND; là cơ sở để tăng cường tính liên kết toàn diện trong hệ thống QTDND, giúp cho các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả theo đúng định hướng của Ðề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sự chuyển đổi này là một sự đột phá mạnh mẽ, tạo ra các giá trị gia tăng phong phú từ các hoạt động nghiệp vụ, từng bước tiếp cận nhiều dịch vụ, phục vụ nhiều đối tượng theo đúng mục tiêu, định hướng, nâng cao vị thế, góp phần thúc đẩy mạnh sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy chuyển sang hoạt động theo mô hình Ngân hàng Hợp tác xã nhưng tính chất và mục tiêu, nguyên tắc tổ chức hoạt động của QTDT.Ư vẫn không thay đổi, song vai trò đầu mối, liên kết hệ thống sẽ càng tăng cao hơn và được luật hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Vai trò của QTDT.Ư với hệ thống tiếp tục được thể hiện ở vai trò kiểm tra, giám sát, liên kết hệ thống, các hoạt động khác nhằm tăng cường năng lực và thế mạnh của hệ thống. Dẫu biết phía trước còn nhiều khó khăn, thách thức, song với truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của toàn thể cán bộ, nhân viên của hệ thống QTDND, chắc chắn Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam sẽ nhanh chóng ổn định, phát triển an toàn và không ngừng lớn mạnh trong thời gian tới. Ðịnh hướng phát triển Thành công của hệ thống QTDND có vai trò hết sức quan trọng của Quỹ tín dụng trung ương. Trong mô hình tổ chức của hệ thống ba cấp (trước đây) và hai cấp hiện nay thì Quỹ tín dụng trung ương đóng vai trò là tổ chức đầu mối về vốn, hỗ trợ triển khai các sản phẩm, dịch vụ cho QTDND cơ sở. Ðây là mối liên kết có tính quyết định bảo đảm cho toàn hệ thống phát triển an toàn, bền vững; bởi vì, trong khi các QTDND cơ sở là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay nếu không có một tổ chức đầu mối liên kết kinh tế dưới hình thức Liên hiệp HTX cấp quốc gia thì khi gặp khó khăn về khả năng chi trả, thanh toán thì từng QTDND cơ sở dễ lâm vào khó khăn, mất khả năng thanh khoản, dẫn đến mất kiểm soát, sụp đổ, gây nên hệ quả dây chuyền lớn trong hệ thống. Quỹ tín dụng trung ương với chức năng đầu mối chính là tổ chức thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ này, đồng thời trong điều kiện bình thường cũng thường xuyên tổ chức điều hòa vốn trong nội bộ, bảo đảm dòng chảy thông suốt, hài hòa về vốn trong toàn hệ thống. Không chỉ là đầu mối về vốn Quỹ tín dụng trung ương còn thực hiện hỗ trợ các QTDND triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng, các dự án của tổ chức trong nước và ngoài nước, tư vấn, phối hợp xây dựng cơ chế, cung cấp thông tin... Ðể khai thác tốt hơn nữa tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư, phát huy vai trò của hệ thống QTDND cần nhanh chóng tập trung giải quyết tốt một số nội dung có tính cấp thiết sau: Một là, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để chuyển đổi và xây dựng Quỹ tín dụng trung ương thành Ngân hàng Hợp tác vững mạnh về tài chính, công nghệ; tạo điều kiện về vốn và hành lang pháp lý cho Quỹ tín dụng trung ương chuyển đổi thành Ngân hàng Hợp tác với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của một ngân hàng đầu mối, hỗ trợ hệ thống QTDND nói riêng, thành phần kinh tế hợp tác nói chung. Hai là, quan tâm đúng mức, tạo hành lang pháp lý để hệ thống QTDND và Quỹ tín dụng trung ương phát triển thuận lợi, nhằm tạo điều kiện cho hệ thống ổn định hoạt động sau củng cố, chấn chỉnh, có điều kiện để tăng cường nguồn lực tài chính, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ... tạo nền tảng chuẩn bị cho giai đoạn phát triển. Vì vậy, cần sớm ban hành những cơ chế, chính sách hỗ trợ cho hệ thống QTDND. Ba là, từng bước triển khai mở rộng các hình thức dịch vụ ngân hàng trong hệ thống như: Bảo lãnh, cho vay hợp vốn, liên kết huy động, điều hòa hỗ trợ công nghệ thông tin; đồng thời từng bước hội nhập tham gia thị trường thẻ, công ty mua bán nợ, công ty chứng khoán... với các ngân hàng thương mại Nhà nước tạo tiền đề xây dựng và trực tiếp triển khai các dịch vụ này trong hệ thống QTDND, trước mắt sẽ tập trung triển khai những nội dung này ở Quỹ tín dụng trung ương  là đơn vị đầu mối. Bốn là, cần nhanh chóng hình thành các thiết chế hỗ trợ chung mà trọng tâm là thành lập được Quỹ an toàn hệ thống, Quỹ dự phòng thanh toán chi trả để thực hiện nhiệm vụ ứng cứu tài chính cho các trường hợp, sự cố xảy ra trong hệ thống; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Hiệp hội QTDND Việt Nam sớm ổn định cơ chế đại diện, điều phối các hoạt động trên phạm vi cả nước. Năm là, nâng cao hiệu quả, năng lực hoạt động và quản lý của các QTDND cơ sở đồng thời sắp xếp lại các QTDND hoạt động yếu kém, thua lỗ kéo dài; xử lý dứt điểm những tồn đọng trong giai đoạn thí điểm, đưa hệ thống vào hoạt động ổn định, lành mạnh, đồng thời tiếp tục thành lập mới các QTDND cơ sở ở những vùng, địa bàn có đủ điều kiện phát huy thế mạnh của tổ chức tín dụng vi mô, phấn đấu đến năm 2020 có 1.700 QTDND cơ sở với tổng nguồn vốn hoạt động 120.000 tỷ đồng, Quỹ tín dụng trung ương với khoảng 40  chi nhánh hoạt động tại tất cả các tỉnh, thành phố với tổng nguồn vốn hoạt động khoảng 90.000 tỷ đồng.