Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
SlideShare a Scribd company logo
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Đề bài: Vận dụng tri thức thi pháp vào phân tích truyện ngắn Vợ
chồng A phủ (Tô Hoài)
BÀI LÀM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Có thể hiểu, thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, là cái đẹp của
nghệ thuật văn chương. Từ những đặc trưng chủ yếu trong thi pháp truyện ngắn,
chúng tôi liên hệ phân tích truyện ngắn Vợ chồng A phủ của Tô Hoài – một cây
bút văn xuôi sắc sảo, đa dạng, có vị trí đặc biệtquan trọng trong nền văn học
Việt Nam, là một trong số những nhà văn cónhiều đóng góp to lớn cho sự phát
triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.Ông được coi là cây đại thụ của nền
văn học Việt Nam, được độc giả nhiều thế hệ say mê. Truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc (1953).
Trong thi pháp của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, có hai phương diên tiêu
biểu và nổi bật. Đó là kết cấu nghệ thuật và giọng điệu. Kết cấu bề mặt của Vợ
chồng A Phủ có các mảng, các miền của không gian và thời gian, vốn như là
những điều kiện về địa lý, lịch sử và văn hóa để con người trong tác phẩm diễn
trình các dáng nét cuộc sống, lao động, tình yêu, nỗi đau, tâm tư và khát vọng tự
do, đấu tranh và hạnh phúc. Về thời gian có các chặng: Khi Mị và A Phủ còn tự
do, khi làm nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra, thời gian Mị và A Phủ thành vợ
chồng, làm du kích, giải phóng. Về không gian có không gian Hồng Ngài và
Phiềng Sa.
II. NỘI DUNG
2.1. Nhân vật
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tô Hoài là một trong những phương
diện được các nhà nghiên cứu nhìn nhận khá thống nhất. Phan Cự Đệ cùng với
những phát hiện về khả năng quan sát của Tô Hoài đã khẳng định: “Anh quen
viết về những nhân vật, những cảnh đời hồn nhiên như hơi thở của sự sống,
khoẻ mạnh, thuần phác, lạc quan như những con người trong truyện cổ tích.
Trữ tình, trong sáng đẹp và ý nhị như ca dao”. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn
mạnh rằng, thế giới nhân vật của Tô Hoài còn có những hạn chế nhất định:
“Anh chưa thật thành công khi thể hiện những bước ngoặt của tính cách”. “Anh
ít khai thác nhân vật của mình ở góc độ trí tuệ, ở sự bừng tỉnh trí tuệ và hầu
như cũng chưa có nhân vật trí tuệ nào được miêu tả thành công trong tác phẩm
của anh”. Đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài
với quan niệm “con người là con người”, tác giả khẳng định: “Tô Hoài quan
niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi”. Vì thế, nhân vật của
ông được khai thác “toàn chuyện đời tư, đời thường”. Ngay cả “nhân vật cách
mạng, nhân vật anh hùng của ông thường ít được lý tưởng hoá. Tô Hoài không
thích che đậy phương diện người thường, đời thường của những chiến sỹ cách
mạng. Ngay cả thế giới loài vật của Tô Hoài cũng vậy thôi, chẳng có những
phượng hoàng, kỳ lân, chẳng có hổ, báo, sư tử ghê gớm gì, chỉ toàn những con
vật tầm thường vẫn sinh sống hằng ngày quanh ta”. Đặc điểm riêng này khiến
thế giới nhân vật Tô Hoài phong phú, đa dạng và gần gũi với mỗi chúng ta.
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tô Hoài nói chung chúng rất đa
dạng và sinh động. Chúng là phương tiện quan trọng thể hiện cảm quan nghệ
thuật của tác giả, là phương diện quan trọng làm nên thế giới nghệ thuật của nhà
văn thể hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Và nhà văn Tô Hoài trong quá
trình sáng tác những truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã rất khéo léo và thành công
trong quá trình xây dựng các hình tượng nhân vật.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Thứ nhất, về ngoại hình nhân vật.
Ngoại hình, hình dáng của nhân vật thường có mối quan hệ chặt chẽ với
tính cách, bản chất của nhân vật. Người xưa đã dạy “Trông mặt mà bắt hình
dong”, như vậy ngoại hình là yếu tố đầu tiên khi xem xét nhân vật. Tuỳ theo
dụng ý nghệ thuật mỗi nhân vật thường được tác giả phác hoạ những nét đậm
nhạt về ngoại hình.
Trong Vợ chồng A Phủ, tuy tác giả không dụng công miêu tả vẻ đẹp hình
thức của Mị bởi đó không phải là chiều tư tưởng nhà văn muốn vươn tới.
Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng
Mị” cũng đủ để người đọc hình dung vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật. Theo quy
luật thông thường, sắc thường đi đôi với tài và quả Mị tài thật tài thổi sáo khiến
“nhiều người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Sắc tài ấy báo hiệu điều gì?
Đọc ta mới thấy Mị cũng giống các nhân vật nữ khác, ở những nơi khác như
Tiểu Thanh, Thuý Kiều – những nhân vật nữ tài hoa mà bạc mệnh.
Thứ hai, hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật.
Hành động, hành vi, cử chỉ của nhân vật là những tín hiệu quan trọng
cung cấp thêm những thông tin cho bức tranh toàn diện về nhân vật. Mỵ trong
Vợ Chồng A Phủ là một điển hình thuộc loại nhân vật hành động. Diễn biến tâm
lý và hành động của Mỵ gắn liền với nhau, bổ trợ nhaulàm nổi bật tính cách.
Toàn bộ hành động của Mỵ là hành động phản kháng với sự bất công. Khi bị
bắt về làm dâu gạt nợ nhà Pá Tra hành động đầu tiêncủa Mỵ là không chấp
nhận, Mỵ xin cha được đi làm trả nợ, cha không đồng ý, Mỵ khóc và quyết định
tự tử. Đây là hành động thể hiện Mỵ đã ý thức được về quyền sống, quyền tự do
của mình. Tiếp đó, trong đêm tình mùa xuân với tiếng sáo đánh thức tâm hồn
Mỵ đã làm xuất hiện hành động thứ hai mạnh mẽ, quyết liệt hơn, bỏ qua nỗi sợ
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
hãi cha con thống kí Mỵ chuẩn bị váy áo đi chơi xuân. Hành động này thể hiện
sức sống mạnh mẽ, bất diệt, khát khao tự do, hạnh phúc cháy bỏng trong Mỵ.
Từ hành động chuẩn bị đi chơi đêm tình mùa xuân châm ngòi dẫn đến hành
động táo bạo về sau này khi chứng kiến A Phủ bị trói, đánh, Mỵ quyết định rút
dao, cắt dây, cởi trói cho A Phủ và cũng cứu lấy bản thân mình. Đó là hành
động quan trọng làm nên sự đổi thay cuộc đời Mỵ
Thứ ba mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung
quanh.
Quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh chi
phối tình cảm, tính cách nhân vật. Cô Mị trong Vợ chồng A Phủ tiếng là dâu
nhưng thực chất là nô lệ trong nhà thống lí. Quan hệ đó đã biến một cô gái yêu
đời, yêu sống thành cái xác không hồn, thành thứ đồ vật trang trí thêm cho cảnh
nhà giàu. Nhưng chính khung cảnh ngày tết đầy xao xuyến, cảnh bữa cơm cúng
ma nhộn nhịp, rồi tiếng sáo gọi bạn yêu lại đánh thức ngọn lửa lòng âm ỉ trong
tro tàn bùng cháy.
2.2. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó,
thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ bản tính của nó: cái này bên cạnh cái
kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn
cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên
mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng. Do
vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào
không gian địa lý. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
mô hình hóa cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận
của mình trong đó. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người
và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” là loại truyện số phận. Tác phẩm kể về số
phận của Mỵ và A Phủ nên không gian trong tác phẩm là không gian của số
phận con người diễn ra ở hai địa điểm cách xa nhau hàng tháng đường rừng trên
vùng cao Tây Bắc là Hồng Ngài và Phiềng Sa. Trong bối cảnh không gian
chung ấy, mỗi đoạn đời hai của nhân vật lại gắn với những không gian mang
dấu ấn riêng.
Thứ nhất, không gian số phận của Mỵ và A Phủ ở Hồng Ngài là không
gian nô lệ. Trong không gian ấy, có hai loại nhân vật được ngòi bút tác giả tập
trung thể hiện là kẻ chủ nô và người nô lệ. Kẻ chủ nô là cha con thống lý Pá
Tra, còn người nô lệ là Mỵ và A Phủ. Kẻ chủ nô có đủ mọi quyền hành còn
người nô lệ bị đối xử không bằng súc vật.
Trước hết, tác giả đã xây dựng không gian bối cảnh dẫn tới không gian nô
lệ. Đó là không gian gia đình Mỵ sống cùng người bố đã già yếu lại mang một
món nợ truyền kiếp. Món nợ ấy là do bố Mỵ vay của bố thống lý Pá Tra để cưới
mẹ Mỵ, mỗi năm phải trả lãi cho chủ nợ một nương ngô. Cả cuộc đời lao động
vất vả, bố mẹ Mỵ cũng không thể nào trả hết nợ. Và bây giờ, cái thời khắc quyết
định đến số phận cuộc đời Mỵ đã đến khi Pá Tra đến bảo với bố Mỵ: “Cho tao
đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.”. Mặc dù rất thương con
nhưng bố con Mỵ không có cách nào chống lại cái luật lệ khắc nghiệt do bọn
quan lại vùng cao đặt ra. Đây chính là bối cảnh để buộc Mỵ phải trở thành nô lệ.
Như vậy là món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ, Mỵ phải trả bằng cả tuổi trẻ và
cuộc sống tự do của mình. Còn cha con Pá Tra đã hoàn thành việc biến con
người tự do thành nô lệ.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Hoàn cảnh trở thành nô lệ của A Phủ cũng là phải trả nợ cho thống lý Pá
Tra, nhưng nguyên nhân dẫn đến việc trở thành nô lệ của A Phủ thì có khác.
Tác giả khắc họa một không gian thơ mộng của những đêm tình mùa xuân dành
cho tuổi trẻ ở vùng cao. Trong không gian ấy có tiếng sáo thổi, có các chàng
trai, các cô gái trẻ đẹp, có các trò chơi ném pao, đánh quay, đặc biệt là có tiếng
hát gọi bạn tình. Không gian thơ mộng như trong cổ tích ấy bỗng chốc bị phá vỡ
bởi sự xuất hiện của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mặc dù đã có vợ, hắn vẫn
muốn đi bắt nhiều cô gái trẻ đẹp khác về làm vợ, mà thực chất là làm nô lệ.
Không như lần đi cướp Mỵ về làm vợ, lần này A Sử đã phải trả giá cho việc phá
rối cuộc chơi của đám thanh niên. A Phủ xuất hiện, “vung tay ném thẳng con
quay vào giữa mặt A Sử”. A Phủ xộc tới, nắm lấy cái vòng cổ nạm bạc của A
Sử, cái dấu hiệu con quan của hắn mà đánh tới tấp trước sự cổ vũ của trai làng.
Tất nhiên là đứa con của núi rừng tự do ấy bị bắt, bị trói, bị khiêng về nhà Pá
Tra, bị đánh đập tàn nhẫn, bị xử phạt và bị biến thành nô lệ.
Không gian bối cảnh có vai trò làm nền để đẩy nhân vật vào không gian
nô lệ. Để tạo ra bối cảnh của câu chuyện, tác giả đã đưa vào truyện một số sự
kiện. Các sự kiện này tương tác với nhau thúc đẩy sự diễn biến của cốt truyện.
Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật theo cấu trúc nghịch lý. Mỵ có tuổi trẻ,
có sắc đẹp, hiếu thảo, nhưng lại sinh ra trong một gia đình quá nghèo. Vì không
có tiền trả nợ cho bố nên trở thành nô lệ. Còn A Phủ, tuy là chàng trai mồ côi,
không người thân thích, không nhà cửa, không tài sản nhưng lại có đầy đủ phẩm
chất của người lao động: có sức khỏe, lao động giỏi, ưa thích những công việc
mạo hiểm, giàu lòng dũng cảm, con gái nhiều người mê, nhưng cũng bởi không
có tiền nộp phạt mà A Phủ trở thành nô lệ của Pá Tra. Bọn quan lại thì có quyền
lực, có công cụ đàn áp, vừa gian ác, vừa xảo quyệt, chúng tìm mọi cách để nô lệ
hóa con người. Khi hai lực lượng ấy va đập vào nhau, thì như một tất yếu của
cuộc sống trong xã hội cũ, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Thứ hai, trước khi chính thức trở thành nô lệ nhà thống lý Pá Tra, A Phủ
phải trải qua một cuộc xử kiện lạ lùng. Tác giả đã đưa người đọc vào một
không gian pháp đình chưa từng có trong lịch sử xử án. Không gian ấy được
miêu tả từ ngoại cảnh đến nội cảnh. Ngoại cảnh là có thêm nhiều ngựa buộc
dưới gốc đào. Nó chứng tỏ một phiên xư án có nhiều người đến dự. Bởi hầu như
tất cả bọn chức việc ở Hồng Ngài đều có mặt ở nhà Pá Tra để dự xử kiện và ăn
cỗ: nào lý dịch, nào thống quán, nào xéo phải, nào bọn đi gọi người về xử kiện.
Ngoài ra còn có bọn trai làng bị gọi sang hầu kiện. Thành phần “quan tòa” đã
đông đủ. Việc chuẩn bị cho buổi xử kiện cũng rất chu đáo với năm bàn đèn
thuốc phiện. Nguyên cáo, bị cáo, quan tòa, nhân chứng đã đủ, thế là buổi xử
kiện bắt đầu. Mở đầu cho buổi xử kiện là tiệc thuốc phiện. Trước tiên là thống
lý Pá Tra hút một lượt năm điếu, rồi người khác, lại người khác cho đến khắp
lượt. Sau đó, Pá Tra gọi, A Phủ bị lôi ra giữa nhà, bị chửi bới và bị đánh đập tàn
nhẫn. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng
chửi, càng hút”. Không gian ấy ngào ngạt khói thuốc phiện, tràn ngập âm thanh
của những cơn kéo thuốc phiện, âm thanh của tiếng chửi, tiếng kể, tiếng đánh
đấm huỳnh huỵch. Không một lời giãi bày, biện hộ của A Phủ, bởi chàng trai ấy
không được phép nói dù chỉ một lời mà chỉ im như cái tượng đá trước những
trận mưa đòn. Điều đó cho ta thấy được tính cách gan lì của A Phủ, sự tàn ác
của bọn quan lại. Suốt một đêm đến sáng hôm sau, buổi xử kiện kết thúc bằng
việc Pá Tra mở tráp lấy ra một trăm đồng bạc trắng và phán: “Thằng A Phủ
đánh người, làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi
đồng, nộp thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng mỗi người đi gọi các
quan làng về hầu kiện năm hào.,.... Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng
bắt thế, bao giờ hết nợ mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay”.
Lời phán quyết đã tuyên. Thật là rõ ràng, rành mạch. Luật lệ của bọn lãnh
chúa là như thế. Nó gợi nhớ đến cách xử án thời trung cổ. Nó còn gợi nhớ
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
những vụ án tru di tam tộc thời phong kiến nước ta. Không bị giết cả ba họ hoặc
ba đời, nhưng phải ở nợ cho đến ba đời. Tất nhiên là A Phủ không thể nào trả
được nợ khi bản thân anh là một nô lệ. Vì thế, việc ở nợ không chỉ dừng lại ở ba
đời. Chỉ khi nào chế độ nô lệ bị đánh đổ, những người như A Phủ mới được giải
phóng mà thôi.
Để nô dịch hóa con người, bọn chúa đất đã dùng biết bao thủ đoạn thâm
độc như cho vay nặng lãi để ràng buộc con người, đẩy người tự do vào đường
cùng phải làm nô lệ; bắt lao động khổ sai như súc vật; đánh đập con người vô
cùng tàn nhẫn và vô lý, cầm tù, giam hãm, cấm đoán con người; trình ma như
một nghi lễ lợi dụng thần quyền để khống chế con người.
Như trên đã nói, Mỵ và A Phủ có đủ điều kiện chính đáng để được sống
một cuộc đời hạnh phúc song lại bị cuộc đời chà đạp đến tận đáy sâu của nó. Họ
bị biến thành nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra.
Thứ ba, không gian nô lệ trong nhà Pá Tra được biểu hiện ở hai mặt:
Không gian lao động khổ sai và không gian tù ngục. Nhà văn đã dành bao tình
thương yêu của mình cho nhân vật. Trong lời kể mở đầu tác phẩm, Mỵ đã hiện
ra với nhiều tín hiệu của cuộc đời đầy giông bão: “Ai ở xa về có viêc vào nhà
thống lý Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt
vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn
rười rượi”. Mỵ hiện lên không phải ở phía chân dung mà ở phía số phận, một
số phận quá nghiệt ngã mà Mỵ đã bị buộc vào. Việc trở thành con dâu gạt nợ
nhà Pá Tra đã xâu chuỗi những nỗi đau khổ của cuộc đời Mỵ. Món nợ nhà giàu
đã cướp trắng tuổi trẻ và khát vọng của Mỵ. Bông hoa tinh khiết của núi rừng bị
nhấn chìm trong kiếp sống tôi đòi cơ cực. Nhà văn đã diễn tả nỗi cực nhọc về
thân xác của cô gái ấy trong kiếp sống lao động khổ sai. Mỵ không có quyền
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
làm người mà chỉ có: quyền làm việc, quyền làm nô lệ, quyền làm trâu ngựa.
Lúc đầu, Mỵ trốn về nhà bố, đinh ăn lá ngón tự tử. Nhìn bề ngoài, đây là hành
vi tiêu cực của kẻ chán sống, nhưng thực chất, nó là biểu hiện của lòng yêu đời.
Nó cho thấy sự lựa chọn cực đoan của Mỵ là thà được chết như một con người
còn hơn phải sống như một con vật. Điều này chỉ có ở những người giàu lòng tự
trọng, có ý thức rất cao về phẩm giá của mình. Nhưng Mỵ lại rơi vào một tình
thế bi kịch: Sống không được mà chết cũng không xong. Lòng hiếu thảo không
cho phép Mỵ quyên sinh. Xưa Thúy Kiều đã vì chữ hiếu mà bán mình chuộc
cha. Còn nay, vì món nợ của cha chưa trả xong, Mỵ không đành lòng chết khi
nghe bố nói: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ
tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô
trả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Thế là Mỵ
đành trở lại nhà Pá Tra để tiếp tục cuộc đời nô lệ. Mỵ sống như một người đã
chết: không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, không giao lưu, không
đoái hoài đến không gian, thời gian. Mỵ câm lặng như một cái bóng, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa. Thân xác ngày càng héo hon, tinh thần càng tàn lụi.
Sống chỉ là kéo dài những chuỗi ngày chưa chết mà thôi!
Để diễn tả cuộc đời lao động khổ sai của Mỵ, nhà văn đã dựng được
những phép so sánh thật là đau đớn: “Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu,
mình cũng là con ngựa. Con ngựa phải đổi tàu ngựa nhà này đến ở tàu ngựa
nhà khác. Con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.”. Đây là phép so
sánh tương đồng: so sánh con người với con trâu, con ngựa. Nhà văn còn sử
dụng so sánh đòn bẩy: con người không bằng con vật vì con vật còn được nghỉ
ngơi ban đêm để gãi chân, nhai cỏ, còn con người thì vùi đầu vào công việc cả
ngày, cả đêm. Mà cơ man nào là công việc đè nặng lên những kiếp người: “Tết
xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng ôm một bó đay
trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế”.
Không chỉ diễn tả nỗi đau thể xác, nhà văn còn thông cảm với nỗi đau
khổ tinh thần. Chính xúc cảm về nỗi đau tinh thần ấy đã khiến ông sáng tạo ra
những hình ảnh khó quên. Đó là hình ảnh cô Mỵ rạo rực xuân thì ngày nào bây
giờ trở thành con rùa lùi lũi trong xó cửa. Nhất là hình ảnh căn buồng nơi Mỵ
nằm kín mít với cái cửa sổ vuông bằng bàn tay. Mỵ ngồi đó trông ra, lúc nào
cũng chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Đây là cách
diễn tả cực hay về một thứ ngục thất tinh thần. Nó không chỉ giam hãm thân xác
Mỵ mà còn cách ly tâm hồn cô với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của
cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi cất lên nhân danh quyền sống.
Chế độ ấy đáng lên án bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tắt lụi ngọn lửa của
sự sống trong những con người có quyền sống và đáng sống.
Nếu lúc trước Mỵ không thể chết được vì còn món nợ của người cha thì
nay, dù cha Mỵ đã chết, Mỵ lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Muốn
chết nghĩa là còn chống lại cuộc sống không ra sống. Khi không thiết chết nghĩa
là sự thiết tha với cuộc sống cũng không còn. Như vậy thì sức sống của Mỵ vĩnh
viễn mất đi chăng? Không phải thế. Lòng yêu thương và sự đồng cảm đối với
con người đã giúp nhà văn nhận ra rằng, bên trong cái hình ảnh con rùa lùi lũi
kia vẫn tiềm tàng một sức sống, chỉ chờ có dịp là nó bùng lên. Và cái sức sống
ấy đã bùng lên trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi bạn tình. Quả thực bức
tranh xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết
giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng
Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá, xòe như con
bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng, nở đỏ au, nở đỏ thậm, rồi tím man
mác”. Sắc cỏ gianh, gió và rét cũng như sự biến đổi màu sắc kỳ lạ của các loài
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
hoa cũng chưa chắc đã đủ để làm nên sự nổi loạn của một tâm hồn đã tê dại suốt
bao năm. Cần phải có những tác nhân khác nữa mới đủ để cho tâm hồn của một
kẻ nô lệ đã tê dại bùng lên nổi loạn.
Trong sâu thẳm tâm hồn Mỵ, có một tiếng hát mà không sức mạnh cường
quyền nào có thể dập tắt được. Nó là kết tinh sức sống kỳ diệu của con người.
Bị vùi sâu chôn chặt bấy lâu nay, bây giờ nó đang thức dậy. Mỵ ngồi nhẩm lời
bài hát của người đang thổi sáo: “Mày có con trai con gái/Mày đi làm nương/Ta
không có con trai con gái/Ta đi tìm người yêu”.
Nhu cầu giao cảm, giao lưu, nhu cầu sống đã trở lại. Khát vọng sống
bừng dậy cứ làm lòng Mỵ phơi phới trở lại, càng lúc càng rạo rực, cồn cào. Ý
thức về thời gian đã trở lại. Mỵ đang sống với thời gian thực tại và nhớ về quá
khứ. “Lòng Mỵ thì đang sống về ngày trước”. Có một vùng không gian tâm
tưởng bị mờ đi, nay hiện hình rõ dần trong Mỵ. Đó là Mỵ còn sống với bố.
Ngày xuân, Mỵ cũng uống rượu, và thổi sáo. Mỵ cuốn chiếc lá đưa lên môi thổi
cũng hay như thổi sáo. Trai làng theo Mỵ hết núi này đến núi khác. Và ban đêm,
con trai đến đứng nhẵn chân vách buồng Mỵ.
Tác nhân ấy trước hết là hơi rượu. Nhà văn đã để cho nhân vật Mỵ lén
uống rượu. “Mỵ lén lấy hũ rượu uống ực từng bát”. Uống mà như nuốt mọi
đắng cay, tủi cực vào lòng. Cái say vừa gây lãng quên, vừa đem lại trí nhớ.
Quên thực tại và nhớ về quá khứ. Điều quan trọng là Mỵ vẫn nhớ rằng mình vẫn
còn là một con người. Ý thức ấy đã lớn dần lên: “Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi
chơi. Bao nhiêu người có chồng cùng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử và Mỵ
không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Cùng với hơi rượu, tiếng sáo đưa Mỵ đi theo cuộc chơi. Tiếng sáo cứ trở
đi, trở lại. Thoạt đầu là tiếng sáo còn vọng mãi từ xa ngoài đầu núi chỉ đủ cho
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Mỵ nghe và nhớ lại lời bài hát của người đang thổi sáo mà nhẩm hát theo. Sau
đó, “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi tiếng sáo đã không chỉ gọi bạn mà là
“gọi bạn yêu” bay lơ lửng ngoài đường để rồi nó bay rập rờn trong đầu Mỵ và
trở thành tiếng lòng thổn thức. Thế nhưng thoát khỏi tình trang hiện tại là điều
không hề đơn giản. Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương tranh giữa một bên là
sức sống tiềm tàng, và một bên là ý thức về thân phận. Vì thế, dù trong lòng
phơi phới, Mỵ vẫn theo quán tính đi vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái
cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Lòng Mỵ đầy mâu thuẫn. Đỉnh điểm của bi
kich lúc này chính là “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết
ngay”. Những lúc thèm sống như một con người, Mỵ chỉ muốn chết. Mâu thuẫn
ấy thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài và làm cho hình tượng nhân vật trở
nên chân thật.
Cũng chính tiếng sáo đã kéo Mỵ ra khỏi tình trạng bi kịch đó. Mỵ thèm đi
chơi hội. Mỵ xén miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Mỵ vấn lại tóc, tìm “cái
váy hoa vắt ở phía trong vách” chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mỵ y như
người mộng du, bởi Mỵ làm mà không hề hay biết A Sử bước vào, không nghe
A Sử hỏi. Và Mỵ đã phải trả giá cho hành động của mình. Mỵ bị A Sử trói đứng
vào cột nhà.
Có thể nói rằng Tô Hoài đã góp thêm một điển hình về nhân vật phản
diện. Không chỉ dã man, tàn ác của kẻ chủ nô, cái cung cách làm việc ác đến
mức thản nhiên, lạnh lùng của cha con tên chúa đất này đã làm ta ghê sợ. Hắn
làm việc ác cũng như việc thiện. Điều đó chứng tỏ cái ác đã ngấm vào trong
máu. Ở trên ta đã chứng kiến cảnh Pá Tra vừa hút thuốc phiện, vừa ăn uống,
vừa tiêu khiển bằng việc tra tấn người. Còn ở đây ta chứng kiến cảnh A Sử trói
vợ một cách thản nhiên, lạnh lùng, cẩn thận như người ta trói một con gà, một
bó củi vậy thôi. Trói xong vợ, hắn thắt nốt chiếc thắt lưng xanh, tắt đèn, khép
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
cửa đi chơi hội. Một chuỗi việc làm của A Sử không một chút xúc cảm nào. Tất
cả diễn ra như nhau. Chân tướng của cái ác đã hiện nguyên hình và gây ấn
tượng cực kỳ sâu sắc trong lòng người đọc ở hình tượng cha con Pá Tra. Đây là
thành công của Tô Hoài khi xây dựng hình tượng nhân vật phản diện.
Không gian lao động khổ sai của Mỵ là vùi đầu vào hàng núi công việc
có tên và không tên thì không gian lao động của A Phủ là chăn bò, chăn ngựa,
cuốc rẫy, cuốc nương. Trong không gian ấy, ta tự hỏi tại sao A Phủ không bỏ
trốn. Điều đó có thể trả lời rằng uy quyền của Pá Tra đã bao trùm khắp gầm trời
này, trốn làm sao cho thoát được. Chúng không chỉ dùng cường quyền mà còn
dùng cả thần quyền để nô dịch con người. Bao lần Mỵ đã nghĩ rằng mình đã bị
bắt về trình ma nhà A Sử, nghĩa là con ma nhà nó đã nhận mặt mình thì chỉ còn
một cách là rũ xương ở đây thôi. Ngay khi bắt được Mỵ, A Sử cũng đã đến báo
với bố Mỵ là: “Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi, bây giờ tôi đến
trình bố biêt. Bạc để xin cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi”. A Phủ cũng
đã là đứa ở gạt nợ nhà Pá Tra, vì thế, dù không gian lao động có “thoáng” hơn,
anh cũng không nghĩ đến việc bỏ trốn. Không nhà tù, không cai ngục mà vẫn
giam giữ được con người thì ách nô dịch nặng nề biết chừng nào!.
Dù là một nô lệ nhưng cái bản tính phóng khoáng hồn nhiên ở A Phủ vẫn
chưa mất hẳn. Và chính nó đã làm hại A Phủ. Trong một lần do mải mê bẫy
dím, A Phủ đã để hổ ăn thịt mất một con bò. Vì thế, Pá Tra trói đứng anh vào
chân cột. Cái lạ ở đây là chính A Phủ phải tự mình vác cọc, tự mình đi lấy dây
mây, tự mình đóng cọc xuống bên chân cột, tức là A Phủ đã tự tạo mọi điều
kiện cho sự hành hạ bản thân mình. Anh làm cái công việc để có thể đẩy mình
tới chỗ chết mà không có chút phản ứng nào. Điều đó có chân thực không đối
với một con người gan góc, can trường như A Phủ? Tô Hoài đã chỉ ra rằng có
hai A Phủ trong một con người: một A Phủ can trường, gan góc và một A Phủ
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
cam chịu thân phận tôi đòi. Hai mặt đó vừa đối lập, vừa thống nhất trong một
con người. Đó chính là nguồn gốc làm nên sự vận động nội tại của hình tượng.
Đến đây, cơ hội để Mỵ và A Phủ xích lại gần nha đã có. Hai người có
cùng cảnh ngộ, một là con dâu gạt nợ, một là đứa ở trừ nợ. Cả hai từng bị trói:
Mỵ bị trói trong buồng một đêm, còn A Phủ bị trói ngoài trời nhiều đêm cho
đến chết, nếu như…
Trong những ngày A Phủ bị trói, Mỵ vẫn rơi vào một trạng thái gần như
vô cảm. Niềm an ủi duy nhất của cô lúc này chỉ còn là ngọn lửa. Có hôm khi
đang ngồi sửi lửa, Mỵ bị A Sử đánh ngã bên cửa bếp. Nhưng hôm sau, Mỵ vẫn
lặng lẽ như cái bóng ra ngồi hơ tay, sửi lửa. Hình ảnh người đàn bà héo hắt ngồi
bên bếp lửa đêm đêm vào mùa đông trên núi cao gây ấn tượng thật não nùng.
Nhìn thấy A Phủ bị trói như thế, Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. “Nếu là cái
xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nỗi khổ của kẻ khác không làm động lòng
Mỵ. Phải chăng, lòng thương người ở Mỵ đã tắt hẳn? Nhưng rồi một đêm kia,
qua ánh lửa bếp nhìn sang, Mỵ thấy “một dòng nước mắt bò xuống hõm má đã
xám đen lại” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của sự bất lực, tuyệt
vọng ở chàng trai gan góc dũng cảm. Nó có khả năng đánh thức lòng trắc ẩn ở
con người. Tình thương đã cất lên trong Mỵ một lời độc thoại: “… cơ chừng chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Dòng nước
mắt kia chính là giọt nước cuối cùng làm tràn cốc nước. Nó đánh thức trong Mỵ
trí nhớ. “Mỵ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng
thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau
đi được”. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mỵ nhớ ra mình, thương mình. Từ
lúc biết thương mình, Mỵ nghĩ đến người cùng cảnh ngộ. Tình thương ấy lớn
mãi lên trong ý nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ
còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì phải chết thế, A
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Phủ”. Đó là lời chất vấn trước thực tại bất công. Hai tiếng A Phủ lần đầu tiên
rung động trong lòng Mỵ. Tình thương đã biến Mỵ từ một người đàn bà nô lệ
thành một người liều lĩnh. Ý nghĩ cứu A Phủ đến với Mỵ chính vào lúc đó và đã
dẫn đến hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Khi đã cắt xong dây trói, cơn hốt
hoảng tan biến từ nãy đột nhiên ập trở lại trong Mỵ. Khi đã giải quyết xong việc
thương người thì bây giờ đến lượt thương mình. Mỵ nói nhanh: “A Phủ cho tôi
đi”. Chính nỗi sợ chết là tiếng nói của lòng ham sống. Hai người nô lệ vừa thoát
khỏi xiềng xích dìu nhau lao vào bóng đêm của núi rừng. Núi rừng sẽ bao bọc
họ, giúp họ xuyên qua bóng tối mà tìm đến chân trời ánh sáng.
Mỵ và A Phủ đã đi từ không gian nô lệ đến không gian tự do. Tất nhiên là
con đường ấy còn dài. Nhà văn chỉ dừng lại ở không gian đấu tranh cách mạng
của những con người bị áp bức.
A Phủ và Mỵ vượt núi, băng rừng đến vùng tự do của khu du kích các
dân tộc Thái, Dao, Mèo tận Phiềng Sa sau hơn một tháng. Trong không gian
mới, họ đã là vợ chồng. Có thể nói rằng đến tận bây giờ Mỵ và A Phủ mới có
cuộc sống của con người. Họ xây dựng nhà cửa, lao động sản xuất, dự tính
chuyện lâu dài. Thế nhưng, nỗi sợ cố hữu cứ dội lên từng lúc khi Mỵ nghĩ về
cuộc đời cũ dưới ách Pá Tra. Những tưởng rằng, họ sẽ được sống bình yên,
nhưng rồi bọn Tây ở đồn Bản Pe lên cướp lợn, bắt A Phủ. Lại nghe nói, Pá Tra
đã về Bản Pe cùng bọn Tây, nỗi sợ lại xâm chiếm lòng Mỵ. A Châu đã đến như
một nhân vật phù trợ trong truyện cổ tích thần kỳ. Người cán bộ cách mạng ấy
đã kết nghĩa anh em cùng A Phủ, dạy anh cách làm nhà ngoài rừng để cất giấu
tài sản, đưa anh vào đội du kích. Xây dựng hình tượng A Châu, Tô Hoài muốn
chứng minh rằng con đường đến với cách mạng là con đường tất yếu để tự giải
phóng của người lao động.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Mùa xuân năm ấy vẫn có tết, nhưng bọn Tây lại lên càn phá, cướp bóc,
bắt và giết người. Mỵ cũng bị bắt nhưng may mà trốn được. Nhìn thấy cái chết
của vợ con A Chế, Mỵ lại muốn trốn nữa. Nếu trước kia là nỗi sợ phong kiến và
thần quyền thì bây giờ nỗi sợ ấy tăng lên trong lòng Mỵ vì có thằng Tây nữa.
Nhưng A Phủ đã thuyết phục Mỵ: “Mê à? Đây là khu du kích Phiềng Sa. Tiểu
đội trưởng A Phủ đây mà”. Mỵ đã tỉnh ra, hết sợ, cùng chồng chuẩn bị đi cứu
bà con bị bon Tây vừa bắt.
Tóm lại, không gian ở Phiềng Sa là không gian đấu tranh cách mạng. Ở
đó, những giá trị của con người đã bị tước đoạt đang được khôi phục lại. Con
người và con người sống với nhau trong tình nghĩa anh em, làng xóm, đồng chí.
Đọc xong tác phẩm, gấp sách lại mà vẫn thấy hiện lên một vùng Tây Bắc xa xôi
mà gần gũi, thân thuộc.
2.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Văn phong, giọng điệu, ngôn ngữ Tô Hoài, những phương diện đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhận diện. Vân Thanh khẳng định: “Ngôn ngữ
Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”. Ý
kiến đó được Phan Cự Đệ tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh: “Tô Hoài đã chú ý
học tập ngôn ngữ nghề nghiệp và ngôn ngữ địa phương”. “Trong tác phẩm của
Tô Hoài nhìn chung ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật
hoá”. Cùng với Phan Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ yếu
làm bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”.
Nhất trí với nhận định ấy, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Vũ
Quần Phương, Trần Đình Nam, Lê Phòng, Nguyễn Đăng Điệp,... trong các công
trình nghiên cứu của mình tiếp tục có những nhận xét sắc sảo: “Khi miêu tả
thiên nhiên cũng là lúc văn của Tô Hoài đậm màu sắc trữ tình và giàu chất thơ”
(Hà Minh Đức); “Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
sinh động. Người, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt,... tất cả đều hiện lên lung
linh, sống động, nổi rõ cái “thán” của đối tượng và thường bàng bạc một chất
thơ” (Trần Hữu Tá); “Tô Hoài có biệt tài miêu tả sinh hoạt và phong cảnh miền
xuôi cũng như miền núi và có một lối kể truyện rất tự nhiên, dí dỏm, có khi tinh
quái” (Nguyễn Văn Long); “Viết về cái của mình, quanh mình là định hướng
nghệ thuật và cũng là kênh thẩm Mỵ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt
lõi làm nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó khiến cho văn Tô Hoài có được
phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh
quái” (Nguyễn Đăng Điệp),...
Ngôn từ là chất liệu cơ bản tạo nên tác phẩm văn học. Tìm hiểu đặc điểm
ngôn từ của nhà văn phải dựa vào hệ thống ngôn từ mà nhà văn đã sử dụng
trong quá trình sáng tác. Có thể nhận thấy ngôn ngữ trong truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài có hai đặc điểm sau.
Thứ nhất, ngôn từ với việc tái hiện“muôn mặt đời thường” trong việc
miêu tả chuyện ăn uống.
Tác phẩm của Tô Hoài đề cập đến nhiều lĩnh vực đời sống bởi ông là
người trải đời, thấu lẽ đời, nhìn ra những vấn đề quan trọng của cuộc đời từ
những chuyện nho nhỏ trong đời thường. “Muôn mặt đời thường” hiện lên sắc
nét qua hệ thống ngôn từ dân dã, đời thường trong đó nổi bật là lớp từ nghề
nghiệp, lớp từ chỉ sự ăn uống trong sinh hoạt đời thường và lớp từ miêu tả loài
vật.
Một nét đặc sắc trong sáng tác của Tô Hoài là quan tâm miêu tả chuyện
ăn uống, một nếp sinh hoạt đời thường của người Việt. Ông đã tạo được “từ
điển” về hệ thống từ chỉ sự “ăn uống” trong đó chủ yếu là lớp từ nôm na, dân
dã.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Sức hấp dẫn của lớp từ Tô Hoài miêu tả chuyện ăn uống là các từ chỉ các
món ăn trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là những từ quen thuộc chỉ món ăn từ các
loại cây, con của làng quê, sống nước, trên đảo hoang (rau khoai lang luộc, mẻ
làm từ cà chua, đậu nướng, tương, lạc ở vùng quê, nước cáy, cá nướng, cá kho
nục, cua, ốc, lá ngót, mật ong, dưa hấu), món ăn xưa (bánh đất hay còn gọi bánh
ngói), món ăn được “chế” theo cách thức ngày nay, gọi theo cách của người thời
nay (món phở không người lái, canh không người lái, cơm căng tin, cơm mậu
dịch,...). Những từ dân dã, đại chúng khi tả các món ăn đã thể hiện nếp sống đời
thường dân và có cả thân phận con người, cuộc sống nay bờ mai bãi của người
làng chài, sự chắt chiu, tằn tiện của người làng dệt; việc tự tìm cái ăn để duy trì
sự sống khi bị đày lên đảo hoang,… Đáng chú ý hơn là những từ nôm na, dân
dã được Tô Hoài dùng để chỉ cách ăn, cách uống. Nếu những từ chỉ món ăn gắn
với nếp sống, phong tục, tập quán thì những từ chỉ cách ăn, cách uống luôn gắn
với tính cách, số phận nhân vật trong những hoàn cảnh có tính điển hình. Ví dụ
như từ “uống ực” thể hiện nỗi uất ức của Mị.
Thứ hai, ngôn ngữ giàu chất thơ.
Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên
nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng,… không thể lẫn được
với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen,
hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Có khi, chỉ một vài điểm nhấn, tác giả
đã phác ra được cái nét rất riêng của đối tượng. Những ngày sống trong căn
phòng ngột ngạt, tù túng của mình ở nhà thống lí Pá Tra, Mị nhìn ra trời qua
khung cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào Mị cũng “chỉ thấy trăng trắng, không
biết là sương hay là nắng”. Không gian ấy chỉ có thể tìm được ở Tây Bắc bởi
núi rừng trùng điệp. Ban ngày, ánh mặt trời cũng khó có thể xua tan những màn
sương giăng trắng làng bản. Đêm xuống, sương đêm hoà với ánh trăng tạo nên
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
thứ không gian huyền ảo như trong ảo mộng. Đặc biệt, nhà văn đã có những câu
văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những
ngày giáp Tết: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã
xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào
cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè
như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Những câu văn mang đầy “ý thơ”
đã lột tả được hồn cốt thiên nhiên Tây Bắc với núi rừng trùng điệp, cao rộng vời
vợi. Điểm vào cái nền thiên nhiên xanh mướt ấy là những dấu ấn của con người:
những nương lúa, nương ngô uốn lượn trên sườn đồi sườn núi; những đống lửa
bốc lên từ các lều canh nương; những đám cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy
hoa xoè rực rỡ nhiều màu sắc của những cô gái H’mông là điểm nhấn đầy thi vị
cho bức tranh thiên nhiên ấy.
Chất thơ còn được nhận ra bởi đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của
con người nơi đây. Đọc truyện, ta rất dễ bắt gặp những hình ảnh thường xuyên
xuất hiện trong đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Bắc. Đó là ngôi nhà gỗ
với bếp lửa đặt trong nhà suốt mùa đông không tắt hòn than, là những công việc
hằng ngày như cõng nước, cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi,… Trang phục đặc
trưng của người phụ nữ H’mông vùng cao này là váy xoè sặc sỡ đi kèm với
những chiếc vòng bạc lấp lánh.
Truyện cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng
bào vùng cao là lễ hội mùa xuân. Tết của người vùng cao không giống tết ở
miền xuôi. Người vùng cao có cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy
tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui
thu hoạch mùa màng. Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi
vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui
đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
gái yêu nhau. Không khí ngày xuân của Hồng Ngài mang những dấu ấn đặc
trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái tìm đến nhau để
tỏ tình. Họ bận những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi ném còn, chơi quay, thổi
sáo, đàn môi, uống rượu,… Tất cả đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu dặt,
tình tứ.
Tô Hoài đã đặc tả không khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình,
qua đó hiện lên bức tranh ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh:
“Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm
đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân
chơi trước nhà”. Ông cũng đặc biệt chú trọng đến phong tục của họ qua con
mắt tò mò, hóm hỉnh của mình: “Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên
núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ.
Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”.
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý
miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người
H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Anh ném pao, em không bắt. Em
không yêu, quả pao rơi rồi”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các
chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngòi bút
Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả được “cái
hồn” của tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ bạn đi
chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo còn là
cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: “Suốt đêm, con trai đến nhà
người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian cứ tiếp nối, những
ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày sau dường như
vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái
tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn cước.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Bên cạnh những phong tục đẹp đẽ thể hiện tâm hồn thuần phác, nồng hậu
của đồng bào Tây Bắc là những phong tục còn mông muội, chứa nhiều điều bất
công vẫn còn tồn tại ở Tây Bắc những năm trước Cách mạng. Đó là sự phân
chia đẳng cấp giàu – nghèo rất rõ. Trang phục của con nhà giàu cũng có những
dấu hiệu khác: “Rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan
trong làng mới được đeo”. Đó là tục bắt vợ, cúng ma trình vợ đầy mê tín. Cái
hủ tục lạc hậu ấy đã trở thành một thứ thần quyền ghê gớm án ngữ tư tưởng của
người lao động nơi này, khiến họ luôn bị bóng đêm của sự mông muội đè nén,
giày xéo không sao ngẩng đầu lên được. Đó là cái lệ đi ở trừ nợ: “bao giờ có
tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con
ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết
nợ tao mới thôi”. Đặc biệt, hình ảnh ngôi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc phiện với
bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở vùng
đất nào khác. Tài năng của nhà văn tập trung trong việc quan sát, dựng cảnh sắc
sảo cảnh xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn, hủ
tục, lề lối, sự tàn bạo, dã man của thế lực phong kiến miền núi đã được lột tả hết
sức sinh động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải
ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt
dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt
đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi
Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm,
càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên
từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng
người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch”. Phải
thấm thía cảnh sống đau đớn, tủi nhục như thế, ta mới cảm nhận được hết sức
mạnh “cởi trói” tựa như bản năng sinh tồn mãnh liệt của những thân phận bị chà
đạp.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp
người đọc có thêm nhiều hiểu biết phong phú về đời sống của đồng bào Tây
Bắc. Trong truyện ngắn này, bằng vốn hiểu biết phong phú và khả năng quan
sát tinh tế, tác giả đã khắc hoạ lại được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và miêu tả sinh động
những người H’mông hồn nhiên, ngay thẳng. Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh
vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên đến cảnh xử
kiện,… tất cả đều được phác hoạ sống động, tài tình, tạo nên phong vị đặc trưng
của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực.
Nét đặc sắc nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” biểu hiện
ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như
héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn
le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống
lí Pá Tra, Mị có cái vẻ ngoài âm thầm chịu đựng nhưng bên trong, kỳ thực, đó
lại là một sức sống tiềm tàng, rạo rực. Đúng như Tô Hoài đã nói: “Ở nơi rừng
núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong
câu chuyện là đây. Chất thơ đặc biệt được tác giả tạo nên là đây. Đó là khi nghe
tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân vọng về, lòng Mị lại “thiết
tha bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn
Mị, phần tâm hồn rạo rực của cô gái trẻ ngỡ như đã chết đi khi cô mang thân
phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối tâm
hồn Mị trở về với ký ức của những ngày tự do xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo
giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên
môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi
sáo đi theo Mị”. Và tiếng sáo giao duyên ấy thức tỉnh tâm hồn Mị: “Mị thấy
phơi phói trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Đến đây, ta chợt nhớ lại
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
một câu châm ngôn rằng: “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc
sống. Mất mát lớn nhất chính là ta để tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn
sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng chết, nay đã sống lại trong tâm
hồn. Và khi tâm hồn Mị không lụi tàn chính là khi sức sống tiềm tàng, rạo rực
trong Mị chỉ chờ cơ hội đến là trỗi dậy mạnh mẽ. Như vậy, trong quá trình xây
dựng nhân vật Mị với một cuộc đời đầy bi kịch, nhà văn Tô Hoài đã thật khéo
léo thêm vào nhân vật mình một nét tâm hồn rất “thơ” và giàu tính nhân văn.
Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống của con người, những trang văn
của Tô Hoài vẫn thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát
khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người.
Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn
ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình,
gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái
ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn
toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu
nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những
cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn.
III. KẾT LUẬN
Là một trong những nhà văn Việt Nam hiện đại tiêu biểu và nôi bật nhất,
Tô Hoài sáng tác nhiều thê loại văn học, từ truyện ngắn, tiêu thuyết đến hôi kí,
với hàng trăm tác phẩm lớn nhỏ, âu như ở mảng nào ông cũng đạt được những
thành tựu nhất định. Có thể nói, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc
sắc trong tập Truyện Tây Bắc. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã phê phán và tố
cáo chế độ phong kiến miền núi đang bóc lột, áp bức lên quyền sống và quyền
hạnh phúc của người dân. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đến cho người đọc
một tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cũng như tập Truyện Tây Bắc nói chung
bộc lộ rõ nét phong cách của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất
trữ tình đằm thắm, lời văn giàu tính tạo hình. Đọc xong truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài. Gấp trang sách lại rồi mà chúng ta vẫn không quên được
gương mặt “buồn rười rượi” của Mị. Đó là gương mặt mang nỗi đau của một
kiếp người không bằng ngựa trâu. Đó là gương mặt tưởng như cam chịu, mất
hết sức sống. Không, đằng sau gương mặt ấy, vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm
tàng không dễ gì dập tắt. Tô Hoài nói với Phan Thị Thanh Nhàn: “Muốn viết
văn, điều quan trọng nhất là chi tiết. Mà chi tiết thì không thể phịa ra được.
Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng tốt”.
Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
thực tập, Assignment, Essay
Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn lí luận tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
2. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam lịch sử thi pháp chân dung, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (1994 - Chủ biên), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
4. Hà Minh Đức (1996), Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb Văn
học, Hà Nội.
5. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp truyện, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
7. Tô Hoài (1971), Truyện Tây Bắc (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Đoàn Trọng Huy (2002), Tô Hoài - Giáo trình lịch sử văn học Việt
Nam, Tập III, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
9. Phong Lê - Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Tiệp (2004), “Tô Hoài người sinh ra để viết”, Tạp chí nghiên
cứu lý lý luận và lịch sử văn học.
11. Trần Đình Sử (2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

More Related Content

Vận dụng tri thức thi pháp vào phân tích truyện ngắn Vợ chồng A phủ (Tô Hoài)

  • 1. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Đề bài: Vận dụng tri thức thi pháp vào phân tích truyện ngắn Vợ chồng A phủ (Tô Hoài) BÀI LÀM I. ĐẶT VẤN ĐỀ Có thể hiểu, thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Từ những đặc trưng chủ yếu trong thi pháp truyện ngắn, chúng tôi liên hệ phân tích truyện ngắn Vợ chồng A phủ của Tô Hoài – một cây bút văn xuôi sắc sảo, đa dạng, có vị trí đặc biệtquan trọng trong nền văn học Việt Nam, là một trong số những nhà văn cónhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.Ông được coi là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam, được độc giả nhiều thế hệ say mê. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Trong thi pháp của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, có hai phương diên tiêu biểu và nổi bật. Đó là kết cấu nghệ thuật và giọng điệu. Kết cấu bề mặt của Vợ chồng A Phủ có các mảng, các miền của không gian và thời gian, vốn như là những điều kiện về địa lý, lịch sử và văn hóa để con người trong tác phẩm diễn trình các dáng nét cuộc sống, lao động, tình yêu, nỗi đau, tâm tư và khát vọng tự do, đấu tranh và hạnh phúc. Về thời gian có các chặng: Khi Mị và A Phủ còn tự do, khi làm nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra, thời gian Mị và A Phủ thành vợ chồng, làm du kích, giải phóng. Về không gian có không gian Hồng Ngài và Phiềng Sa. II. NỘI DUNG 2.1. Nhân vật
  • 2. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tô Hoài là một trong những phương diện được các nhà nghiên cứu nhìn nhận khá thống nhất. Phan Cự Đệ cùng với những phát hiện về khả năng quan sát của Tô Hoài đã khẳng định: “Anh quen viết về những nhân vật, những cảnh đời hồn nhiên như hơi thở của sự sống, khoẻ mạnh, thuần phác, lạc quan như những con người trong truyện cổ tích. Trữ tình, trong sáng đẹp và ý nhị như ca dao”. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh rằng, thế giới nhân vật của Tô Hoài còn có những hạn chế nhất định: “Anh chưa thật thành công khi thể hiện những bước ngoặt của tính cách”. “Anh ít khai thác nhân vật của mình ở góc độ trí tuệ, ở sự bừng tỉnh trí tuệ và hầu như cũng chưa có nhân vật trí tuệ nào được miêu tả thành công trong tác phẩm của anh”. Đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài với quan niệm “con người là con người”, tác giả khẳng định: “Tô Hoài quan niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi”. Vì thế, nhân vật của ông được khai thác “toàn chuyện đời tư, đời thường”. Ngay cả “nhân vật cách mạng, nhân vật anh hùng của ông thường ít được lý tưởng hoá. Tô Hoài không thích che đậy phương diện người thường, đời thường của những chiến sỹ cách mạng. Ngay cả thế giới loài vật của Tô Hoài cũng vậy thôi, chẳng có những phượng hoàng, kỳ lân, chẳng có hổ, báo, sư tử ghê gớm gì, chỉ toàn những con vật tầm thường vẫn sinh sống hằng ngày quanh ta”. Đặc điểm riêng này khiến thế giới nhân vật Tô Hoài phong phú, đa dạng và gần gũi với mỗi chúng ta. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tô Hoài nói chung chúng rất đa dạng và sinh động. Chúng là phương tiện quan trọng thể hiện cảm quan nghệ thuật của tác giả, là phương diện quan trọng làm nên thế giới nghệ thuật của nhà văn thể hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Và nhà văn Tô Hoài trong quá trình sáng tác những truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã rất khéo léo và thành công trong quá trình xây dựng các hình tượng nhân vật.
  • 3. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Thứ nhất, về ngoại hình nhân vật. Ngoại hình, hình dáng của nhân vật thường có mối quan hệ chặt chẽ với tính cách, bản chất của nhân vật. Người xưa đã dạy “Trông mặt mà bắt hình dong”, như vậy ngoại hình là yếu tố đầu tiên khi xem xét nhân vật. Tuỳ theo dụng ý nghệ thuật mỗi nhân vật thường được tác giả phác hoạ những nét đậm nhạt về ngoại hình. Trong Vợ chồng A Phủ, tuy tác giả không dụng công miêu tả vẻ đẹp hình thức của Mị bởi đó không phải là chiều tư tưởng nhà văn muốn vươn tới. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” cũng đủ để người đọc hình dung vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật. Theo quy luật thông thường, sắc thường đi đôi với tài và quả Mị tài thật tài thổi sáo khiến “nhiều người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Sắc tài ấy báo hiệu điều gì? Đọc ta mới thấy Mị cũng giống các nhân vật nữ khác, ở những nơi khác như Tiểu Thanh, Thuý Kiều – những nhân vật nữ tài hoa mà bạc mệnh. Thứ hai, hành động, nội tâm, ngôn ngữ nhân vật. Hành động, hành vi, cử chỉ của nhân vật là những tín hiệu quan trọng cung cấp thêm những thông tin cho bức tranh toàn diện về nhân vật. Mỵ trong Vợ Chồng A Phủ là một điển hình thuộc loại nhân vật hành động. Diễn biến tâm lý và hành động của Mỵ gắn liền với nhau, bổ trợ nhaulàm nổi bật tính cách. Toàn bộ hành động của Mỵ là hành động phản kháng với sự bất công. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà Pá Tra hành động đầu tiêncủa Mỵ là không chấp nhận, Mỵ xin cha được đi làm trả nợ, cha không đồng ý, Mỵ khóc và quyết định tự tử. Đây là hành động thể hiện Mỵ đã ý thức được về quyền sống, quyền tự do của mình. Tiếp đó, trong đêm tình mùa xuân với tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mỵ đã làm xuất hiện hành động thứ hai mạnh mẽ, quyết liệt hơn, bỏ qua nỗi sợ
  • 4. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net hãi cha con thống kí Mỵ chuẩn bị váy áo đi chơi xuân. Hành động này thể hiện sức sống mạnh mẽ, bất diệt, khát khao tự do, hạnh phúc cháy bỏng trong Mỵ. Từ hành động chuẩn bị đi chơi đêm tình mùa xuân châm ngòi dẫn đến hành động táo bạo về sau này khi chứng kiến A Phủ bị trói, đánh, Mỵ quyết định rút dao, cắt dây, cởi trói cho A Phủ và cũng cứu lấy bản thân mình. Đó là hành động quan trọng làm nên sự đổi thay cuộc đời Mỵ Thứ ba mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh. Quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh chi phối tình cảm, tính cách nhân vật. Cô Mị trong Vợ chồng A Phủ tiếng là dâu nhưng thực chất là nô lệ trong nhà thống lí. Quan hệ đó đã biến một cô gái yêu đời, yêu sống thành cái xác không hồn, thành thứ đồ vật trang trí thêm cho cảnh nhà giàu. Nhưng chính khung cảnh ngày tết đầy xao xuyến, cảnh bữa cơm cúng ma nhộn nhịp, rồi tiếng sáo gọi bạn yêu lại đánh thức ngọn lửa lòng âm ỉ trong tro tàn bùng cháy. 2.2. Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ bản tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng
  • 5. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net mô hình hóa cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong đó. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy. Truyện “Vợ chồng A Phủ” là loại truyện số phận. Tác phẩm kể về số phận của Mỵ và A Phủ nên không gian trong tác phẩm là không gian của số phận con người diễn ra ở hai địa điểm cách xa nhau hàng tháng đường rừng trên vùng cao Tây Bắc là Hồng Ngài và Phiềng Sa. Trong bối cảnh không gian chung ấy, mỗi đoạn đời hai của nhân vật lại gắn với những không gian mang dấu ấn riêng. Thứ nhất, không gian số phận của Mỵ và A Phủ ở Hồng Ngài là không gian nô lệ. Trong không gian ấy, có hai loại nhân vật được ngòi bút tác giả tập trung thể hiện là kẻ chủ nô và người nô lệ. Kẻ chủ nô là cha con thống lý Pá Tra, còn người nô lệ là Mỵ và A Phủ. Kẻ chủ nô có đủ mọi quyền hành còn người nô lệ bị đối xử không bằng súc vật. Trước hết, tác giả đã xây dựng không gian bối cảnh dẫn tới không gian nô lệ. Đó là không gian gia đình Mỵ sống cùng người bố đã già yếu lại mang một món nợ truyền kiếp. Món nợ ấy là do bố Mỵ vay của bố thống lý Pá Tra để cưới mẹ Mỵ, mỗi năm phải trả lãi cho chủ nợ một nương ngô. Cả cuộc đời lao động vất vả, bố mẹ Mỵ cũng không thể nào trả hết nợ. Và bây giờ, cái thời khắc quyết định đến số phận cuộc đời Mỵ đã đến khi Pá Tra đến bảo với bố Mỵ: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.”. Mặc dù rất thương con nhưng bố con Mỵ không có cách nào chống lại cái luật lệ khắc nghiệt do bọn quan lại vùng cao đặt ra. Đây chính là bối cảnh để buộc Mỵ phải trở thành nô lệ. Như vậy là món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ, Mỵ phải trả bằng cả tuổi trẻ và cuộc sống tự do của mình. Còn cha con Pá Tra đã hoàn thành việc biến con người tự do thành nô lệ.
  • 6. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Hoàn cảnh trở thành nô lệ của A Phủ cũng là phải trả nợ cho thống lý Pá Tra, nhưng nguyên nhân dẫn đến việc trở thành nô lệ của A Phủ thì có khác. Tác giả khắc họa một không gian thơ mộng của những đêm tình mùa xuân dành cho tuổi trẻ ở vùng cao. Trong không gian ấy có tiếng sáo thổi, có các chàng trai, các cô gái trẻ đẹp, có các trò chơi ném pao, đánh quay, đặc biệt là có tiếng hát gọi bạn tình. Không gian thơ mộng như trong cổ tích ấy bỗng chốc bị phá vỡ bởi sự xuất hiện của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mặc dù đã có vợ, hắn vẫn muốn đi bắt nhiều cô gái trẻ đẹp khác về làm vợ, mà thực chất là làm nô lệ. Không như lần đi cướp Mỵ về làm vợ, lần này A Sử đã phải trả giá cho việc phá rối cuộc chơi của đám thanh niên. A Phủ xuất hiện, “vung tay ném thẳng con quay vào giữa mặt A Sử”. A Phủ xộc tới, nắm lấy cái vòng cổ nạm bạc của A Sử, cái dấu hiệu con quan của hắn mà đánh tới tấp trước sự cổ vũ của trai làng. Tất nhiên là đứa con của núi rừng tự do ấy bị bắt, bị trói, bị khiêng về nhà Pá Tra, bị đánh đập tàn nhẫn, bị xử phạt và bị biến thành nô lệ. Không gian bối cảnh có vai trò làm nền để đẩy nhân vật vào không gian nô lệ. Để tạo ra bối cảnh của câu chuyện, tác giả đã đưa vào truyện một số sự kiện. Các sự kiện này tương tác với nhau thúc đẩy sự diễn biến của cốt truyện. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật theo cấu trúc nghịch lý. Mỵ có tuổi trẻ, có sắc đẹp, hiếu thảo, nhưng lại sinh ra trong một gia đình quá nghèo. Vì không có tiền trả nợ cho bố nên trở thành nô lệ. Còn A Phủ, tuy là chàng trai mồ côi, không người thân thích, không nhà cửa, không tài sản nhưng lại có đầy đủ phẩm chất của người lao động: có sức khỏe, lao động giỏi, ưa thích những công việc mạo hiểm, giàu lòng dũng cảm, con gái nhiều người mê, nhưng cũng bởi không có tiền nộp phạt mà A Phủ trở thành nô lệ của Pá Tra. Bọn quan lại thì có quyền lực, có công cụ đàn áp, vừa gian ác, vừa xảo quyệt, chúng tìm mọi cách để nô lệ hóa con người. Khi hai lực lượng ấy va đập vào nhau, thì như một tất yếu của cuộc sống trong xã hội cũ, phần thắng luôn thuộc về kẻ mạnh.
  • 7. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Thứ hai, trước khi chính thức trở thành nô lệ nhà thống lý Pá Tra, A Phủ phải trải qua một cuộc xử kiện lạ lùng. Tác giả đã đưa người đọc vào một không gian pháp đình chưa từng có trong lịch sử xử án. Không gian ấy được miêu tả từ ngoại cảnh đến nội cảnh. Ngoại cảnh là có thêm nhiều ngựa buộc dưới gốc đào. Nó chứng tỏ một phiên xư án có nhiều người đến dự. Bởi hầu như tất cả bọn chức việc ở Hồng Ngài đều có mặt ở nhà Pá Tra để dự xử kiện và ăn cỗ: nào lý dịch, nào thống quán, nào xéo phải, nào bọn đi gọi người về xử kiện. Ngoài ra còn có bọn trai làng bị gọi sang hầu kiện. Thành phần “quan tòa” đã đông đủ. Việc chuẩn bị cho buổi xử kiện cũng rất chu đáo với năm bàn đèn thuốc phiện. Nguyên cáo, bị cáo, quan tòa, nhân chứng đã đủ, thế là buổi xử kiện bắt đầu. Mở đầu cho buổi xử kiện là tiệc thuốc phiện. Trước tiên là thống lý Pá Tra hút một lượt năm điếu, rồi người khác, lại người khác cho đến khắp lượt. Sau đó, Pá Tra gọi, A Phủ bị lôi ra giữa nhà, bị chửi bới và bị đánh đập tàn nhẫn. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Không gian ấy ngào ngạt khói thuốc phiện, tràn ngập âm thanh của những cơn kéo thuốc phiện, âm thanh của tiếng chửi, tiếng kể, tiếng đánh đấm huỳnh huỵch. Không một lời giãi bày, biện hộ của A Phủ, bởi chàng trai ấy không được phép nói dù chỉ một lời mà chỉ im như cái tượng đá trước những trận mưa đòn. Điều đó cho ta thấy được tính cách gan lì của A Phủ, sự tàn ác của bọn quan lại. Suốt một đêm đến sáng hôm sau, buổi xử kiện kết thúc bằng việc Pá Tra mở tráp lấy ra một trăm đồng bạc trắng và phán: “Thằng A Phủ đánh người, làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào.,.... Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay”. Lời phán quyết đã tuyên. Thật là rõ ràng, rành mạch. Luật lệ của bọn lãnh chúa là như thế. Nó gợi nhớ đến cách xử án thời trung cổ. Nó còn gợi nhớ
  • 8. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net những vụ án tru di tam tộc thời phong kiến nước ta. Không bị giết cả ba họ hoặc ba đời, nhưng phải ở nợ cho đến ba đời. Tất nhiên là A Phủ không thể nào trả được nợ khi bản thân anh là một nô lệ. Vì thế, việc ở nợ không chỉ dừng lại ở ba đời. Chỉ khi nào chế độ nô lệ bị đánh đổ, những người như A Phủ mới được giải phóng mà thôi. Để nô dịch hóa con người, bọn chúa đất đã dùng biết bao thủ đoạn thâm độc như cho vay nặng lãi để ràng buộc con người, đẩy người tự do vào đường cùng phải làm nô lệ; bắt lao động khổ sai như súc vật; đánh đập con người vô cùng tàn nhẫn và vô lý, cầm tù, giam hãm, cấm đoán con người; trình ma như một nghi lễ lợi dụng thần quyền để khống chế con người. Như trên đã nói, Mỵ và A Phủ có đủ điều kiện chính đáng để được sống một cuộc đời hạnh phúc song lại bị cuộc đời chà đạp đến tận đáy sâu của nó. Họ bị biến thành nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra. Thứ ba, không gian nô lệ trong nhà Pá Tra được biểu hiện ở hai mặt: Không gian lao động khổ sai và không gian tù ngục. Nhà văn đã dành bao tình thương yêu của mình cho nhân vật. Trong lời kể mở đầu tác phẩm, Mỵ đã hiện ra với nhiều tín hiệu của cuộc đời đầy giông bão: “Ai ở xa về có viêc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ hiện lên không phải ở phía chân dung mà ở phía số phận, một số phận quá nghiệt ngã mà Mỵ đã bị buộc vào. Việc trở thành con dâu gạt nợ nhà Pá Tra đã xâu chuỗi những nỗi đau khổ của cuộc đời Mỵ. Món nợ nhà giàu đã cướp trắng tuổi trẻ và khát vọng của Mỵ. Bông hoa tinh khiết của núi rừng bị nhấn chìm trong kiếp sống tôi đòi cơ cực. Nhà văn đã diễn tả nỗi cực nhọc về thân xác của cô gái ấy trong kiếp sống lao động khổ sai. Mỵ không có quyền
  • 9. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net làm người mà chỉ có: quyền làm việc, quyền làm nô lệ, quyền làm trâu ngựa. Lúc đầu, Mỵ trốn về nhà bố, đinh ăn lá ngón tự tử. Nhìn bề ngoài, đây là hành vi tiêu cực của kẻ chán sống, nhưng thực chất, nó là biểu hiện của lòng yêu đời. Nó cho thấy sự lựa chọn cực đoan của Mỵ là thà được chết như một con người còn hơn phải sống như một con vật. Điều này chỉ có ở những người giàu lòng tự trọng, có ý thức rất cao về phẩm giá của mình. Nhưng Mỵ lại rơi vào một tình thế bi kịch: Sống không được mà chết cũng không xong. Lòng hiếu thảo không cho phép Mỵ quyên sinh. Xưa Thúy Kiều đã vì chữ hiếu mà bán mình chuộc cha. Còn nay, vì món nợ của cha chưa trả xong, Mỵ không đành lòng chết khi nghe bố nói: “Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi không lấy ai làm nương ngô trả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!”. Thế là Mỵ đành trở lại nhà Pá Tra để tiếp tục cuộc đời nô lệ. Mỵ sống như một người đã chết: không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, không giao lưu, không đoái hoài đến không gian, thời gian. Mỵ câm lặng như một cái bóng, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thân xác ngày càng héo hon, tinh thần càng tàn lụi. Sống chỉ là kéo dài những chuỗi ngày chưa chết mà thôi! Để diễn tả cuộc đời lao động khổ sai của Mỵ, nhà văn đã dựng được những phép so sánh thật là đau đớn: “Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa phải đổi tàu ngựa nhà này đến ở tàu ngựa nhà khác. Con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.”. Đây là phép so sánh tương đồng: so sánh con người với con trâu, con ngựa. Nhà văn còn sử dụng so sánh đòn bẩy: con người không bằng con vật vì con vật còn được nghỉ ngơi ban đêm để gãi chân, nhai cỏ, còn con người thì vùi đầu vào công việc cả ngày, cả đêm. Mà cơ man nào là công việc đè nặng lên những kiếp người: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi
  • 10. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng ôm một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế”. Không chỉ diễn tả nỗi đau thể xác, nhà văn còn thông cảm với nỗi đau khổ tinh thần. Chính xúc cảm về nỗi đau tinh thần ấy đã khiến ông sáng tạo ra những hình ảnh khó quên. Đó là hình ảnh cô Mỵ rạo rực xuân thì ngày nào bây giờ trở thành con rùa lùi lũi trong xó cửa. Nhất là hình ảnh căn buồng nơi Mỵ nằm kín mít với cái cửa sổ vuông bằng bàn tay. Mỵ ngồi đó trông ra, lúc nào cũng chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Đây là cách diễn tả cực hay về một thứ ngục thất tinh thần. Nó không chỉ giam hãm thân xác Mỵ mà còn cách ly tâm hồn cô với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi cất lên nhân danh quyền sống. Chế độ ấy đáng lên án bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tắt lụi ngọn lửa của sự sống trong những con người có quyền sống và đáng sống. Nếu lúc trước Mỵ không thể chết được vì còn món nợ của người cha thì nay, dù cha Mỵ đã chết, Mỵ lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Muốn chết nghĩa là còn chống lại cuộc sống không ra sống. Khi không thiết chết nghĩa là sự thiết tha với cuộc sống cũng không còn. Như vậy thì sức sống của Mỵ vĩnh viễn mất đi chăng? Không phải thế. Lòng yêu thương và sự đồng cảm đối với con người đã giúp nhà văn nhận ra rằng, bên trong cái hình ảnh con rùa lùi lũi kia vẫn tiềm tàng một sức sống, chỉ chờ có dịp là nó bùng lên. Và cái sức sống ấy đã bùng lên trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi bạn tình. Quả thực bức tranh xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng, nở đỏ au, nở đỏ thậm, rồi tím man mác”. Sắc cỏ gianh, gió và rét cũng như sự biến đổi màu sắc kỳ lạ của các loài
  • 11. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net hoa cũng chưa chắc đã đủ để làm nên sự nổi loạn của một tâm hồn đã tê dại suốt bao năm. Cần phải có những tác nhân khác nữa mới đủ để cho tâm hồn của một kẻ nô lệ đã tê dại bùng lên nổi loạn. Trong sâu thẳm tâm hồn Mỵ, có một tiếng hát mà không sức mạnh cường quyền nào có thể dập tắt được. Nó là kết tinh sức sống kỳ diệu của con người. Bị vùi sâu chôn chặt bấy lâu nay, bây giờ nó đang thức dậy. Mỵ ngồi nhẩm lời bài hát của người đang thổi sáo: “Mày có con trai con gái/Mày đi làm nương/Ta không có con trai con gái/Ta đi tìm người yêu”. Nhu cầu giao cảm, giao lưu, nhu cầu sống đã trở lại. Khát vọng sống bừng dậy cứ làm lòng Mỵ phơi phới trở lại, càng lúc càng rạo rực, cồn cào. Ý thức về thời gian đã trở lại. Mỵ đang sống với thời gian thực tại và nhớ về quá khứ. “Lòng Mỵ thì đang sống về ngày trước”. Có một vùng không gian tâm tưởng bị mờ đi, nay hiện hình rõ dần trong Mỵ. Đó là Mỵ còn sống với bố. Ngày xuân, Mỵ cũng uống rượu, và thổi sáo. Mỵ cuốn chiếc lá đưa lên môi thổi cũng hay như thổi sáo. Trai làng theo Mỵ hết núi này đến núi khác. Và ban đêm, con trai đến đứng nhẵn chân vách buồng Mỵ. Tác nhân ấy trước hết là hơi rượu. Nhà văn đã để cho nhân vật Mỵ lén uống rượu. “Mỵ lén lấy hũ rượu uống ực từng bát”. Uống mà như nuốt mọi đắng cay, tủi cực vào lòng. Cái say vừa gây lãng quên, vừa đem lại trí nhớ. Quên thực tại và nhớ về quá khứ. Điều quan trọng là Mỵ vẫn nhớ rằng mình vẫn còn là một con người. Ý thức ấy đã lớn dần lên: “Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cùng đi chơi ngày tết. Huống chi A Sử và Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Cùng với hơi rượu, tiếng sáo đưa Mỵ đi theo cuộc chơi. Tiếng sáo cứ trở đi, trở lại. Thoạt đầu là tiếng sáo còn vọng mãi từ xa ngoài đầu núi chỉ đủ cho
  • 12. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Mỵ nghe và nhớ lại lời bài hát của người đang thổi sáo mà nhẩm hát theo. Sau đó, “tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi tiếng sáo đã không chỉ gọi bạn mà là “gọi bạn yêu” bay lơ lửng ngoài đường để rồi nó bay rập rờn trong đầu Mỵ và trở thành tiếng lòng thổn thức. Thế nhưng thoát khỏi tình trang hiện tại là điều không hề đơn giản. Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, và một bên là ý thức về thân phận. Vì thế, dù trong lòng phơi phới, Mỵ vẫn theo quán tính đi vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Lòng Mỵ đầy mâu thuẫn. Đỉnh điểm của bi kich lúc này chính là “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay”. Những lúc thèm sống như một con người, Mỵ chỉ muốn chết. Mâu thuẫn ấy thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài và làm cho hình tượng nhân vật trở nên chân thật. Cũng chính tiếng sáo đã kéo Mỵ ra khỏi tình trạng bi kịch đó. Mỵ thèm đi chơi hội. Mỵ xén miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Mỵ vấn lại tóc, tìm “cái váy hoa vắt ở phía trong vách” chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mỵ y như người mộng du, bởi Mỵ làm mà không hề hay biết A Sử bước vào, không nghe A Sử hỏi. Và Mỵ đã phải trả giá cho hành động của mình. Mỵ bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Có thể nói rằng Tô Hoài đã góp thêm một điển hình về nhân vật phản diện. Không chỉ dã man, tàn ác của kẻ chủ nô, cái cung cách làm việc ác đến mức thản nhiên, lạnh lùng của cha con tên chúa đất này đã làm ta ghê sợ. Hắn làm việc ác cũng như việc thiện. Điều đó chứng tỏ cái ác đã ngấm vào trong máu. Ở trên ta đã chứng kiến cảnh Pá Tra vừa hút thuốc phiện, vừa ăn uống, vừa tiêu khiển bằng việc tra tấn người. Còn ở đây ta chứng kiến cảnh A Sử trói vợ một cách thản nhiên, lạnh lùng, cẩn thận như người ta trói một con gà, một bó củi vậy thôi. Trói xong vợ, hắn thắt nốt chiếc thắt lưng xanh, tắt đèn, khép
  • 13. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net cửa đi chơi hội. Một chuỗi việc làm của A Sử không một chút xúc cảm nào. Tất cả diễn ra như nhau. Chân tướng của cái ác đã hiện nguyên hình và gây ấn tượng cực kỳ sâu sắc trong lòng người đọc ở hình tượng cha con Pá Tra. Đây là thành công của Tô Hoài khi xây dựng hình tượng nhân vật phản diện. Không gian lao động khổ sai của Mỵ là vùi đầu vào hàng núi công việc có tên và không tên thì không gian lao động của A Phủ là chăn bò, chăn ngựa, cuốc rẫy, cuốc nương. Trong không gian ấy, ta tự hỏi tại sao A Phủ không bỏ trốn. Điều đó có thể trả lời rằng uy quyền của Pá Tra đã bao trùm khắp gầm trời này, trốn làm sao cho thoát được. Chúng không chỉ dùng cường quyền mà còn dùng cả thần quyền để nô dịch con người. Bao lần Mỵ đã nghĩ rằng mình đã bị bắt về trình ma nhà A Sử, nghĩa là con ma nhà nó đã nhận mặt mình thì chỉ còn một cách là rũ xương ở đây thôi. Ngay khi bắt được Mỵ, A Sử cũng đã đến báo với bố Mỵ là: “Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma nhà tôi, bây giờ tôi đến trình bố biêt. Bạc để xin cưới thì bố tôi bảo đã đưa cả cho bố rồi”. A Phủ cũng đã là đứa ở gạt nợ nhà Pá Tra, vì thế, dù không gian lao động có “thoáng” hơn, anh cũng không nghĩ đến việc bỏ trốn. Không nhà tù, không cai ngục mà vẫn giam giữ được con người thì ách nô dịch nặng nề biết chừng nào!. Dù là một nô lệ nhưng cái bản tính phóng khoáng hồn nhiên ở A Phủ vẫn chưa mất hẳn. Và chính nó đã làm hại A Phủ. Trong một lần do mải mê bẫy dím, A Phủ đã để hổ ăn thịt mất một con bò. Vì thế, Pá Tra trói đứng anh vào chân cột. Cái lạ ở đây là chính A Phủ phải tự mình vác cọc, tự mình đi lấy dây mây, tự mình đóng cọc xuống bên chân cột, tức là A Phủ đã tự tạo mọi điều kiện cho sự hành hạ bản thân mình. Anh làm cái công việc để có thể đẩy mình tới chỗ chết mà không có chút phản ứng nào. Điều đó có chân thực không đối với một con người gan góc, can trường như A Phủ? Tô Hoài đã chỉ ra rằng có hai A Phủ trong một con người: một A Phủ can trường, gan góc và một A Phủ
  • 14. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net cam chịu thân phận tôi đòi. Hai mặt đó vừa đối lập, vừa thống nhất trong một con người. Đó chính là nguồn gốc làm nên sự vận động nội tại của hình tượng. Đến đây, cơ hội để Mỵ và A Phủ xích lại gần nha đã có. Hai người có cùng cảnh ngộ, một là con dâu gạt nợ, một là đứa ở trừ nợ. Cả hai từng bị trói: Mỵ bị trói trong buồng một đêm, còn A Phủ bị trói ngoài trời nhiều đêm cho đến chết, nếu như… Trong những ngày A Phủ bị trói, Mỵ vẫn rơi vào một trạng thái gần như vô cảm. Niềm an ủi duy nhất của cô lúc này chỉ còn là ngọn lửa. Có hôm khi đang ngồi sửi lửa, Mỵ bị A Sử đánh ngã bên cửa bếp. Nhưng hôm sau, Mỵ vẫn lặng lẽ như cái bóng ra ngồi hơ tay, sửi lửa. Hình ảnh người đàn bà héo hắt ngồi bên bếp lửa đêm đêm vào mùa đông trên núi cao gây ấn tượng thật não nùng. Nhìn thấy A Phủ bị trói như thế, Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. “Nếu là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Nỗi khổ của kẻ khác không làm động lòng Mỵ. Phải chăng, lòng thương người ở Mỵ đã tắt hẳn? Nhưng rồi một đêm kia, qua ánh lửa bếp nhìn sang, Mỵ thấy “một dòng nước mắt bò xuống hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của sự bất lực, tuyệt vọng ở chàng trai gan góc dũng cảm. Nó có khả năng đánh thức lòng trắc ẩn ở con người. Tình thương đã cất lên trong Mỵ một lời độc thoại: “… cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Dòng nước mắt kia chính là giọt nước cuối cùng làm tràn cốc nước. Nó đánh thức trong Mỵ trí nhớ. “Mỵ chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mỵ nhớ ra mình, thương mình. Từ lúc biết thương mình, Mỵ nghĩ đến người cùng cảnh ngộ. Tình thương ấy lớn mãi lên trong ý nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì phải chết thế, A
  • 15. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Phủ”. Đó là lời chất vấn trước thực tại bất công. Hai tiếng A Phủ lần đầu tiên rung động trong lòng Mỵ. Tình thương đã biến Mỵ từ một người đàn bà nô lệ thành một người liều lĩnh. Ý nghĩ cứu A Phủ đến với Mỵ chính vào lúc đó và đã dẫn đến hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Khi đã cắt xong dây trói, cơn hốt hoảng tan biến từ nãy đột nhiên ập trở lại trong Mỵ. Khi đã giải quyết xong việc thương người thì bây giờ đến lượt thương mình. Mỵ nói nhanh: “A Phủ cho tôi đi”. Chính nỗi sợ chết là tiếng nói của lòng ham sống. Hai người nô lệ vừa thoát khỏi xiềng xích dìu nhau lao vào bóng đêm của núi rừng. Núi rừng sẽ bao bọc họ, giúp họ xuyên qua bóng tối mà tìm đến chân trời ánh sáng. Mỵ và A Phủ đã đi từ không gian nô lệ đến không gian tự do. Tất nhiên là con đường ấy còn dài. Nhà văn chỉ dừng lại ở không gian đấu tranh cách mạng của những con người bị áp bức. A Phủ và Mỵ vượt núi, băng rừng đến vùng tự do của khu du kích các dân tộc Thái, Dao, Mèo tận Phiềng Sa sau hơn một tháng. Trong không gian mới, họ đã là vợ chồng. Có thể nói rằng đến tận bây giờ Mỵ và A Phủ mới có cuộc sống của con người. Họ xây dựng nhà cửa, lao động sản xuất, dự tính chuyện lâu dài. Thế nhưng, nỗi sợ cố hữu cứ dội lên từng lúc khi Mỵ nghĩ về cuộc đời cũ dưới ách Pá Tra. Những tưởng rằng, họ sẽ được sống bình yên, nhưng rồi bọn Tây ở đồn Bản Pe lên cướp lợn, bắt A Phủ. Lại nghe nói, Pá Tra đã về Bản Pe cùng bọn Tây, nỗi sợ lại xâm chiếm lòng Mỵ. A Châu đã đến như một nhân vật phù trợ trong truyện cổ tích thần kỳ. Người cán bộ cách mạng ấy đã kết nghĩa anh em cùng A Phủ, dạy anh cách làm nhà ngoài rừng để cất giấu tài sản, đưa anh vào đội du kích. Xây dựng hình tượng A Châu, Tô Hoài muốn chứng minh rằng con đường đến với cách mạng là con đường tất yếu để tự giải phóng của người lao động.
  • 16. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Mùa xuân năm ấy vẫn có tết, nhưng bọn Tây lại lên càn phá, cướp bóc, bắt và giết người. Mỵ cũng bị bắt nhưng may mà trốn được. Nhìn thấy cái chết của vợ con A Chế, Mỵ lại muốn trốn nữa. Nếu trước kia là nỗi sợ phong kiến và thần quyền thì bây giờ nỗi sợ ấy tăng lên trong lòng Mỵ vì có thằng Tây nữa. Nhưng A Phủ đã thuyết phục Mỵ: “Mê à? Đây là khu du kích Phiềng Sa. Tiểu đội trưởng A Phủ đây mà”. Mỵ đã tỉnh ra, hết sợ, cùng chồng chuẩn bị đi cứu bà con bị bon Tây vừa bắt. Tóm lại, không gian ở Phiềng Sa là không gian đấu tranh cách mạng. Ở đó, những giá trị của con người đã bị tước đoạt đang được khôi phục lại. Con người và con người sống với nhau trong tình nghĩa anh em, làng xóm, đồng chí. Đọc xong tác phẩm, gấp sách lại mà vẫn thấy hiện lên một vùng Tây Bắc xa xôi mà gần gũi, thân thuộc. 2.3. Ngôn ngữ nghệ thuật Văn phong, giọng điệu, ngôn ngữ Tô Hoài, những phương diện đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhận diện. Vân Thanh khẳng định: “Ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”. Ý kiến đó được Phan Cự Đệ tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh: “Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề nghiệp và ngôn ngữ địa phương”. “Trong tác phẩm của Tô Hoài nhìn chung ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá”. Cùng với Phan Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ yếu làm bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”. Nhất trí với nhận định ấy, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Vũ Quần Phương, Trần Đình Nam, Lê Phòng, Nguyễn Đăng Điệp,... trong các công trình nghiên cứu của mình tiếp tục có những nhận xét sắc sảo: “Khi miêu tả thiên nhiên cũng là lúc văn của Tô Hoài đậm màu sắc trữ tình và giàu chất thơ” (Hà Minh Đức); “Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả
  • 17. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net sinh động. Người, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt,... tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái “thán” của đối tượng và thường bàng bạc một chất thơ” (Trần Hữu Tá); “Tô Hoài có biệt tài miêu tả sinh hoạt và phong cảnh miền xuôi cũng như miền núi và có một lối kể truyện rất tự nhiên, dí dỏm, có khi tinh quái” (Nguyễn Văn Long); “Viết về cái của mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm Mỵ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó khiến cho văn Tô Hoài có được phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái” (Nguyễn Đăng Điệp),... Ngôn từ là chất liệu cơ bản tạo nên tác phẩm văn học. Tìm hiểu đặc điểm ngôn từ của nhà văn phải dựa vào hệ thống ngôn từ mà nhà văn đã sử dụng trong quá trình sáng tác. Có thể nhận thấy ngôn ngữ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài có hai đặc điểm sau. Thứ nhất, ngôn từ với việc tái hiện“muôn mặt đời thường” trong việc miêu tả chuyện ăn uống. Tác phẩm của Tô Hoài đề cập đến nhiều lĩnh vực đời sống bởi ông là người trải đời, thấu lẽ đời, nhìn ra những vấn đề quan trọng của cuộc đời từ những chuyện nho nhỏ trong đời thường. “Muôn mặt đời thường” hiện lên sắc nét qua hệ thống ngôn từ dân dã, đời thường trong đó nổi bật là lớp từ nghề nghiệp, lớp từ chỉ sự ăn uống trong sinh hoạt đời thường và lớp từ miêu tả loài vật. Một nét đặc sắc trong sáng tác của Tô Hoài là quan tâm miêu tả chuyện ăn uống, một nếp sinh hoạt đời thường của người Việt. Ông đã tạo được “từ điển” về hệ thống từ chỉ sự “ăn uống” trong đó chủ yếu là lớp từ nôm na, dân dã.
  • 18. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Sức hấp dẫn của lớp từ Tô Hoài miêu tả chuyện ăn uống là các từ chỉ các món ăn trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là những từ quen thuộc chỉ món ăn từ các loại cây, con của làng quê, sống nước, trên đảo hoang (rau khoai lang luộc, mẻ làm từ cà chua, đậu nướng, tương, lạc ở vùng quê, nước cáy, cá nướng, cá kho nục, cua, ốc, lá ngót, mật ong, dưa hấu), món ăn xưa (bánh đất hay còn gọi bánh ngói), món ăn được “chế” theo cách thức ngày nay, gọi theo cách của người thời nay (món phở không người lái, canh không người lái, cơm căng tin, cơm mậu dịch,...). Những từ dân dã, đại chúng khi tả các món ăn đã thể hiện nếp sống đời thường dân và có cả thân phận con người, cuộc sống nay bờ mai bãi của người làng chài, sự chắt chiu, tằn tiện của người làng dệt; việc tự tìm cái ăn để duy trì sự sống khi bị đày lên đảo hoang,… Đáng chú ý hơn là những từ nôm na, dân dã được Tô Hoài dùng để chỉ cách ăn, cách uống. Nếu những từ chỉ món ăn gắn với nếp sống, phong tục, tập quán thì những từ chỉ cách ăn, cách uống luôn gắn với tính cách, số phận nhân vật trong những hoàn cảnh có tính điển hình. Ví dụ như từ “uống ực” thể hiện nỗi uất ức của Mị. Thứ hai, ngôn ngữ giàu chất thơ. Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng,… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Có khi, chỉ một vài điểm nhấn, tác giả đã phác ra được cái nét rất riêng của đối tượng. Những ngày sống trong căn phòng ngột ngạt, tù túng của mình ở nhà thống lí Pá Tra, Mị nhìn ra trời qua khung cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào Mị cũng “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Không gian ấy chỉ có thể tìm được ở Tây Bắc bởi núi rừng trùng điệp. Ban ngày, ánh mặt trời cũng khó có thể xua tan những màn sương giăng trắng làng bản. Đêm xuống, sương đêm hoà với ánh trăng tạo nên
  • 19. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net thứ không gian huyền ảo như trong ảo mộng. Đặc biệt, nhà văn đã có những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Những câu văn mang đầy “ý thơ” đã lột tả được hồn cốt thiên nhiên Tây Bắc với núi rừng trùng điệp, cao rộng vời vợi. Điểm vào cái nền thiên nhiên xanh mướt ấy là những dấu ấn của con người: những nương lúa, nương ngô uốn lượn trên sườn đồi sườn núi; những đống lửa bốc lên từ các lều canh nương; những đám cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy hoa xoè rực rỡ nhiều màu sắc của những cô gái H’mông là điểm nhấn đầy thi vị cho bức tranh thiên nhiên ấy. Chất thơ còn được nhận ra bởi đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của con người nơi đây. Đọc truyện, ta rất dễ bắt gặp những hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Bắc. Đó là ngôi nhà gỗ với bếp lửa đặt trong nhà suốt mùa đông không tắt hòn than, là những công việc hằng ngày như cõng nước, cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi,… Trang phục đặc trưng của người phụ nữ H’mông vùng cao này là váy xoè sặc sỡ đi kèm với những chiếc vòng bạc lấp lánh. Truyện cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân. Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người vùng cao có cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai
  • 20. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net gái yêu nhau. Không khí ngày xuân của Hồng Ngài mang những dấu ấn đặc trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái tìm đến nhau để tỏ tình. Họ bận những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu,… Tất cả đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu dặt, tình tứ. Tô Hoài đã đặc tả không khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ông cũng đặc biệt chú trọng đến phong tục của họ qua con mắt tò mò, hóm hỉnh của mình: “Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”. Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngòi bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả được “cái hồn” của tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo còn là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: “Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn cước.
  • 21. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Bên cạnh những phong tục đẹp đẽ thể hiện tâm hồn thuần phác, nồng hậu của đồng bào Tây Bắc là những phong tục còn mông muội, chứa nhiều điều bất công vẫn còn tồn tại ở Tây Bắc những năm trước Cách mạng. Đó là sự phân chia đẳng cấp giàu – nghèo rất rõ. Trang phục của con nhà giàu cũng có những dấu hiệu khác: “Rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo”. Đó là tục bắt vợ, cúng ma trình vợ đầy mê tín. Cái hủ tục lạc hậu ấy đã trở thành một thứ thần quyền ghê gớm án ngữ tư tưởng của người lao động nơi này, khiến họ luôn bị bóng đêm của sự mông muội đè nén, giày xéo không sao ngẩng đầu lên được. Đó là cái lệ đi ở trừ nợ: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đặc biệt, hình ảnh ngôi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc phiện với bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở vùng đất nào khác. Tài năng của nhà văn tập trung trong việc quan sát, dựng cảnh sắc sảo cảnh xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn, hủ tục, lề lối, sự tàn bạo, dã man của thế lực phong kiến miền núi đã được lột tả hết sức sinh động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch”. Phải thấm thía cảnh sống đau đớn, tủi nhục như thế, ta mới cảm nhận được hết sức mạnh “cởi trói” tựa như bản năng sinh tồn mãnh liệt của những thân phận bị chà đạp.
  • 22. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp người đọc có thêm nhiều hiểu biết phong phú về đời sống của đồng bào Tây Bắc. Trong truyện ngắn này, bằng vốn hiểu biết phong phú và khả năng quan sát tinh tế, tác giả đã khắc hoạ lại được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và miêu tả sinh động những người H’mông hồn nhiên, ngay thẳng. Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên đến cảnh xử kiện,… tất cả đều được phác hoạ sống động, tài tình, tạo nên phong vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực. Nét đặc sắc nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị có cái vẻ ngoài âm thầm chịu đựng nhưng bên trong, kỳ thực, đó lại là một sức sống tiềm tàng, rạo rực. Đúng như Tô Hoài đã nói: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong câu chuyện là đây. Chất thơ đặc biệt được tác giả tạo nên là đây. Đó là khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân vọng về, lòng Mị lại “thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn Mị, phần tâm hồn rạo rực của cô gái trẻ ngỡ như đã chết đi khi cô mang thân phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối tâm hồn Mị trở về với ký ức của những ngày tự do xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Và tiếng sáo giao duyên ấy thức tỉnh tâm hồn Mị: “Mị thấy phơi phói trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Đến đây, ta chợt nhớ lại
  • 23. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net một câu châm ngôn rằng: “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc sống. Mất mát lớn nhất chính là ta để tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng chết, nay đã sống lại trong tâm hồn. Và khi tâm hồn Mị không lụi tàn chính là khi sức sống tiềm tàng, rạo rực trong Mị chỉ chờ cơ hội đến là trỗi dậy mạnh mẽ. Như vậy, trong quá trình xây dựng nhân vật Mị với một cuộc đời đầy bi kịch, nhà văn Tô Hoài đã thật khéo léo thêm vào nhân vật mình một nét tâm hồn rất “thơ” và giàu tính nhân văn. Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống của con người, những trang văn của Tô Hoài vẫn thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người. Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn. III. KẾT LUẬN Là một trong những nhà văn Việt Nam hiện đại tiêu biểu và nôi bật nhất, Tô Hoài sáng tác nhiều thê loại văn học, từ truyện ngắn, tiêu thuyết đến hôi kí, với hàng trăm tác phẩm lớn nhỏ, âu như ở mảng nào ông cũng đạt được những thành tựu nhất định. Có thể nói, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã phê phán và tố cáo chế độ phong kiến miền núi đang bóc lột, áp bức lên quyền sống và quyền hạnh phúc của người dân. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đến cho người đọc một tinh thần nhân đạo sâu sắc.
  • 24. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cũng như tập Truyện Tây Bắc nói chung bộc lộ rõ nét phong cách của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất trữ tình đằm thắm, lời văn giàu tính tạo hình. Đọc xong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Gấp trang sách lại rồi mà chúng ta vẫn không quên được gương mặt “buồn rười rượi” của Mị. Đó là gương mặt mang nỗi đau của một kiếp người không bằng ngựa trâu. Đó là gương mặt tưởng như cam chịu, mất hết sức sống. Không, đằng sau gương mặt ấy, vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng không dễ gì dập tắt. Tô Hoài nói với Phan Thị Thanh Nhàn: “Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết. Mà chi tiết thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng tốt”.
  • 25. Luận Văn Group hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ,chuyên đề,khóa luận tốt nghiệp, báo cáo thực tập, Assignment, Essay Zalo/Sdt 0967 538 624/ 0886 091 915 Website:lamluanvan.net DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn lí luận tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam lịch sử thi pháp chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Hà Minh Đức (1994 - Chủ biên), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Hà Minh Đức (1996), Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Tô Hoài (1971), Truyện Tây Bắc (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Đoàn Trọng Huy (2002), Tô Hoài - Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Tập III, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. 9. Phong Lê - Vân Thanh (2000), Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Nguyễn Đăng Tiệp (2004), “Tô Hoài người sinh ra để viết”, Tạp chí nghiên cứu lý lý luận và lịch sử văn học. 11. Trần Đình Sử (2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.