Erythrit
Erythrit | |
---|---|
Các tinh thể erythrit | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật asenat Nhóm vivianit |
Công thức hóa học | Co3(AsO4)2·8H2O |
Phân loại Strunz | 08.CE.40 |
Phân loại Dana | 40.03.06.03 |
Hệ tinh thể | Đơn tà |
Lớp tinh thể | Lăng trụ (2/m) Kí hiệu H-M: (2/m) |
Nhóm không gian | C2/m |
Nhận dạng | |
Màu | Đỏ thẫm tới đỏ đào, hồng nhạt, hồng, có thể chia vùng |
Dạng thường tinh thể | Kết tập tỏa tia hay dạng sao, sợi, tinh đám; thường dạng bột hay khối, hiếm khi như là các tinh thể lăng trụ có khía |
Cát khai | Hoàn hảo trên {010}; kém trên {100} và {102}. |
Độ bền | Có thể cắt được |
Độ cứng Mohs | 1,5–2,5 |
Ánh | Cận kim cương, trân châu trên cát khai |
Màu vết vạch | Đỏ nhạt tới hồng |
Tính trong mờ | Trong suốt tới trong mờ |
Tỷ trọng riêng | 3,06 g/cm³ |
Thuộc tính quang | Hai trục (+) |
Chiết suất | nα = 1,626 - 1,629 nβ = 1,662 - 1,663 nγ = 1,699 - 1,701 |
Khúc xạ kép | δ = 0,073 |
Đa sắc | Nhìn thấy: X = hồng nhạt; Y = tím nhạt tới tím hồng nhạt; Z = đỏ đậm |
Độ hòa tan | không tan |
Tham chiếu | [1][2][3] |
Erythrit hay đỏ cobalt là khoáng vật cobalt arsenat ngậm nước thứ cấp với công thức (Co3(AsO4)2·8H2O). Erythrit và annabergit (Ni3(AsO4)2·8H2O) (nickel asenat) tạo thành một chuỗi hoàn hảo với công thức chung (Co,Ni)3(AsO4)2·8H2O.
Erythrit kết tinh trong hệ đơn tà và tạo thành các tinh thể lăng trụ. Màu từ đỏ thẫm tới hồng và xuất hiện như là lớp che phủ thứ cấp được biết đến như là hoa cobalt trên các khoáng vật cobalt asenua. Các tinh thể kết tinh tốt hiếm gặp, với phần lớn khoáng vật biểu lộ trong các vỏ cứng hay các kết tập nhỏ dạng thận.
Erythrit được mô tả lần đầu tiên năm 1832 cho biểu hiện khoáng vật tại Grube Daniel, Schneeberg, Saxony,[3] và có tên gọi xuất phát từ tiếng Hy Lạp έρυθρος (erythros) – nghĩa là đỏ.[2] Theo dòng lịch sử, bản thân erythrit chưa từng là khoáng vật có tầm quan trọng kinh tế, nhưng những người thăm dò có thể sử dụng nó như là chỉ dẫn cho cobalt và bạc tự nhiên đi kèm theo.
Erythrit xuất hiện như là một khoáng vật thứ cấp trong vùng oxit của các trầm tích chứa khoáng vật Co–Ni–As. Nó thường đi kèm với cobaltit, skutterudit, symplesit, roselit-beta, scorodit, pharmacosiderit, adamit, morenosit, retgersit và malachit.[1]
Các khu vực đáng chú ý là Cobalt, Ontario; Schneeberg, Saxony, Đức; Joachimsthal, Cộng hòa Séc; Cornwall, Anh; Bou Azzer, Maroc; mỏ Blackbird, Lehmi; mỏ Sara Alicia, gần Alamos, Sonora, Mexico; núi Cobalt, Queensland và mỏ đồng Dome Rock, Mingary, Nam Úc.[1]
Các biến thể khác
[sửa | sửa mã nguồn]Biến thể chứa niken là annabergit xuất hiện như là hoa niken màu lục nhạt trên các khoáng vật niken asenua. Ngoài ra, sắt, magie và kẽm cũng có thể thay thế một phần cobalt, tạo ra các khoáng vật khác như parasymplesit (Fe), hörnesit (Mg) và kottigit (Zn).
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c http://rruff.geo.arizona.edu/doclib/hom/erythrite.pdf Handbook of Mineralogy
- ^ a b http://www.mindat.org/min-1407.html Mindat.org
- ^ a b http://webmineral.com/data/Erythrite.shtml Webmineral data
- Dana's Manual of Mineralogy ISBN 0-471-03288-3
- Manual of Mineral Science, ấn bản lần 22. Chủ biên C. Klein. ISBN 0-471-25177-1
- Faye, G H; Nickel, E H (1968). “The origin of pleochroism in erythrite” (PDF). The Canadian Mineralogist. 9: 492–504.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Erythrit. |