Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

JYJ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
JYJ
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khácJunsu/Jaejoong/Yoochun
Nguyên quánSeoul,  Hàn Quốc
Thể loạiK-pop, J-pop, Pop, R&B
Năm hoạt động2010–nay
Hãng đĩaRhythm Zone (đình chỉ)
Warner
C-JeS
Thành viên
Cựu thành viên
Websitehttp://c-jes.com/w/home

JYJ là một nhóm nhạc nam 3 thành viên của Hàn Quốc tách ra từ nhóm nhạc đình đám TVXQ bao gồm: Kim Jaejoong, Kim JunsuPark Yoochun. Tên nhóm được ghép từ chữ cái đầu của mỗi thành viên. Mini album ra mắt tiếng Nhật của họ, The... đạt No. 1 trên BXH album Oricon.[1] Album toàn cầu đầu tiên của nhóm, The Beginning, đã được phát hành vào ngày 14 tháng 10 năm 2010 và sau đó đạt vị trí #5 trong cuộc bình chọn Top 10 Best Album Of 2010 của Billboard, Mỹ. Nhóm cũng đã thu hút được sự chú ý của báo giới và truyền thông khắp thế giới khi trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên biểu diễn ở Chile, cũng sau đó thực hiện rất nhiều tour diễn ở khắp thế giới.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm được thành lập sau khi TVXQ tạm dừng hoạt động tại Nhật.[1] 3 thành viên mà sau này là JYJ đã đệ đơn kiện công ty chủ quản tại Hàn Quốc, SM Entertainment, cho rằng bản hợp đồng 13 năm và thu nhập theo phần trăm họ nhận được là không công bằng. Tòa án Trung tâm quận Seoul đã phán quyết nghiêng về phía 3 thành viên, cho phép họ tạm dừng hợp đồng với SM Entertainment và tự do theo đuổi các hoạt động cá nhân.[2]

Nhóm nhạc được công bố vào tháng 4 năm 2010 bởi Rhythm Zone.[3] Nhóm đã tổ chức concert 4 ngày, Thanksgiving Live in Dome vào tháng 6,[3] và biểu diễn tại A-Nation trong tháng 8.[4] Mini-album đầu tay của nhóm, The..., phát hành ngày 8 tháng 9 năm 2010, khởi đầu với No. 1 trên BXH album Oricon.[1] DVD của concert Thanksgiving Live in Dome tiêu thụ 116,000 bản và album The... là 148,000 bản trong tuần đầu tiên phát hành, cùng giữ ngôi quán quân trên BXH DVD và album trong cùng 1 tuần.[5]

Các thành viên cũng có những hoạt động solo trong thời gian này. Junsu phát hành đĩa đơn ra mắt Xiah, đạt No. 2 trên BXH đĩa đơn Oricon.[6] Anh cũng ra mắt trong lĩnh vực nhạc kịch tại Hàn Quốc với vở nhạc kịch Mozart và cũng đã tổ chức một concert nhạc kịch mang tên "Junsu with Levay" vào tháng 10 năm 2010, hợp tác với nhà soạn nhạc nổi tiếng Sylvester Levay.

Jejung ra mắt với bộ phim điện ảnh đầu tay tại Hàn Quốc, Heaven's Postman, bên cạnh nữ diễn viên Han Hyo Joo. Anh cũng khởi nghiệp diễn viên tại Nhật Bản với một vai trong bộ phim truyền hình Sunao ni Narenakute,[7] và xuất hiện trong MV Blossom của Ayumi Hamasaki.[8]

Yoochun bắt đầu sự nghiệp điện ảnh tại Hàn Quốc với bộ phim truyền hình Sungkyunkwan Scandal.

Vào tháng 9 năm 2010, Avex tuyên bố đình chỉ các hoạt động tại Nhật Bản của JYJ.[2] với lý do mà Avex đưa ra là công ty môi giới của JYJ tại Hàn Quốc có dính lứu đến xã hội đen.

Nhóm phát hành album tiếng Anh toàn cầu đầu tiên, The Beginning vào 14 tháng 10, hợp tác với Kanye West trong single "Ayyy Girl."[9] Họ cũng đã chính thức khởi động tour showcase toàn thế giới, được tổ chức tại Hàn Quốc, Đông Nam Á và Mỹ.[10] Vé cho 2 buổi biểu diễn ở sân vận động Hwaseong 11,000 chỗ tại Đại học Cao Ly đã bán hết trong vòng 15 phút và một phần lợi nhuận sẽ được ủng hô cho World Vision.[11][12] 2 tuần trước khi phát hành album, 50,000 bản thường đã được đặt trước và lượng đặt hàng cho phiên bản đặc biệt 99,999 bản đã lên con số 400,000.[11][13]. The Beginning đã chiếm quán quân bảng xếp hạng Hanteo và Gaon trong tháng 11.

Sau khi biểu diễn thành công tại New York City, Los AngelesLas Vegas, JYJ quay trở về Hàn Quốc tổ chức "JYJ Worldwide Concert in Seoul" trong 2 ngày tại SVĐ Jamsil Olimpic. Theo kế hoạch ban đầu, buổi biểu diễn sẽ tổ chức dưới dạng Dome-concert lần đầu tiên tại Hàn Quốc, với SVĐ sẽ được lắp đặt mái che. Nhưng do cơn bão tuyết sáng 27 tháng 11, mái che SVĐ đã bị phá hỏng nên kế hoạch buộc phải thay đổi, khiến cho ngày 27, chương trình đã bị hoãn lại hơn 1 tiếng đồng hồ để xử lý tháo gỡ phần mái che và màn trình diễn tia lases không được tiến hành như dự định. Bất chấp thời tiết khắc nghiệt và sự cố ngoài ý muốn, buổi biểu diễn vẫn diễn ra tốt đẹp vào đêm 27 và 28, trong sự cổ vũ của hơn 100,000 khán giả.

Ngày 24 tháng 1, JYJ đã phát hành một album mới dưới dạng "tiểu luận âm nhạc" (music essay) có nhan đề Their room, Our Story, bao gồm 6 ca khúc mới do 3 thành viên tự sáng tác và sản xuất.

Bị cấm vận xuất hiện trên truyền hình nhưng JYJ vẫn không hề nản chí. Nhóm đã quyết định tổ chức tour diễn thế giới với điểm dừng chân đầu tiên là Thái Lan. Concert tại Thái Lan diễn ra và ngày 2 và ngày 3 tháng 4 thu hút khoảng 22.000 người hâm mộ. Đặc biệt, thành viên Hero Jaejoong còn tham gia với tư cách là một đạo diễn. Ngoài ra, trong tour diễn lần này, JYJ tiếp tục cho ra mắt khán giả 4 ca khúc mới của nhóm: You're, Get out, In heaven và Boy's Letter. Sau hai tháng vòng quanh Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Canada, Mỹ, chuyến lưu diễn thế giới của JYJ đã kết thúc tại Busan (Hàn Quốc với hơn 17.000 khán giả tham gia. Có thể nói, tour diễn vòng quanh thế giới 2011 của JYJ đã kết thúc vô cùng thành công tốt đẹp.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thông tin album BXH
Oricon[14]
BXH
Hanteo
Tiêu thụ[15]
2010 The Beginning

  • Phát hành: 14 tháng 10 năm 2010[16]
  • Ngôn ngữ: Tiếng Anh
  • Định dạng:: CD, tải nhạc số

11 1 62.000 (Oricon style - Korea import)[15]
315,000 (Korea)


509.396 (Total)(update 01/01/2011)

Mini-album

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Thông tin album Oricon
Albums
Charts
[14]
Tiêu thụ[15]
2010 The...

  • Phát hành: 8 tháng 9 năm 2010
  • Ngôn ngữ: Tiếng Nhật
  • Định dạng:: CD, tải nhạc số

1 175,000 (Oricon Style)
2011 Their Rooms Uri Iyagi (우리 이야기 "Our Story")

  • Phát hành: 24 tháng 1 năm 2011
  • Ngôn ngữ: Tiếng Triều Tiên
  • Định dạng:: CD, tải nhạc số

TBA TBA
  • 3hree Voices (28 tháng 7 năm 2010)
  • Thanksgiving Live in Dome (8 tháng 9 năm 2010)

Chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thanksgiving Live in Dome (Tháng 6, 2010)
  • New Album Showcase Tour 2010 (Tháng 10-11, 2010)
  • JYJ World Tour 2011 (Tháng 2-6, 2011)

Danh sách giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng
2011
  • 7th Channel V Thailand Music Video Awards: Popular Asian Artist (The Beginning) [17]
  • 2011 KBS Best Icon Awards: The Best Idol Star [18]
  • So-Loved Awards 2011 (European K-Pop Awards): Best Male Group (In Heaven) [19]
  • So-Loved Awards 2011 (European K-Pop Awards): Best Music Video (In Heaven) [19]
  • So-Loved Awards 2011 (European K-Pop Awards): Best Album (In Heaven) [19]
  • So-Loved Awards 2011 (European K-Pop Awards): Best OST (Junsu - Scent of a Woman OST) [19]
  • 7th Paeksang Arts Award: Best New Actor (Yuchun - Sungkyunkwan Scandal)
  • 7th Paeksang Arts Award: Popularity Award-Male (Yuchun - Sungkyunkwan Scandal)
  • Seoul International Drama Awards: Drama Category-Best Actor (Yuchun - Sungkyunkwan Scandal)
  • MBC Drama Awards: Best Newcomer (Yuchun - Miss Ripley)
  • SBS Drama Awards: Best Newcomer (Jejung - Protect the Boss)
  • 5th The Musical Award: Most Popular Actor (Junsu - Tears of Heaven)
  • 17th Korea Musical Awards: Most Popular Actor (Junsu - Tears of Heaven)
  • 3rd Asia Jewelry Awards: World KPOP Superstar Award (Junsu)
  • 2011 Most Beautiful Man in ASIA (được bình chọn ở Trung Quốc): Jejung
  • Peruvian Magazine Privilege 2011: Most Sexiest Man in the World (Jejung)
  • Singapore’s "My Paper": Most Handsome Men of Asia (Jejung)
  • JKN entertainment awards 2011: Number 1 Best Male Kpop group
  • Melon Best Album for September 2011: In Heaven
  • Most Favourite Male Artist in ASIA: Jejung
  • KPOP Convention Hottest Male Artist Award 2011 in Philippine: Jejung
  • NeTV Gorealra Awards 2011 Adieu! Winners: Jejung (for 10secs scene and Jejung with Namu Couple)
  • Korean Update Awards 2011: Grand Prize award
  • Korean Update Awards 2011: Best Male Group (In Heaven)
  • Korean Update Awards 2011: Best Album (In heaven)
  • Korean Update Awards 2011: Song Of the year (In Heaven)
  • Korean Update Awards 2011: Dance of the year (Get Out)
  • SoulBeats Best Album for 2011: In Heaven

Fan của JYJ

[sửa | sửa mã nguồn]

JYJ sở hữu lượng fan hâm mộ đông đảo tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới, cả châu Âu, châu Mỹ, châu Úc, châu Phi và đặc biệt là tại châu Á, ở các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Việt Nam... Tại Việt Nam, fansite hâm mộ JYJ là JYJ Family Vietnam[20] được thành lập từ tháng 3/2011 hoạt động rầm rộ với các Project ủng hộ nhóm như tặng lẵng hoa, tặng hoa gạo, tổ chức hoạt động chào đón tới Việt Nam... mỗi khi các thành viên có sự kiện. Đặc biệt, JYJ Family Vietnam còn rất tích cực trong các hoạt động từ thiện trong nước và quốc tế, ủng hộ cho nhiều hoàn cảnh khó khăn tại khắp các miền đất nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “東方神起新ユニット、デビュー作が初日首位”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 9 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  2. ^ a b Lee, Woo-young (ngày 23 tháng 9 năm 2010). “Three members of TVXQ face setback in Japan”. The Korean Herald. Park Haeng-hwan. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  3. ^ a b “ジュンス、ジェジュン、ユチョンによる新ユニット結成!”. Rhythm Zone (bằng tiếng Nhật). ngày 14 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  4. ^ “「JUNSU/JEJUNG/YUCHUN」「a-nation'10 powered by ウイダーinゼリー」出演決定!!”. Rhythm Zone (bằng tiếng Nhật). ngày 28 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  5. ^ “東方神起・新ユニット、海外アーティスト史上初のアルバム&DVD2冠”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 14 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  6. ^ “XIAH(DVD付) - XIAH junsu”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  7. ^ “活動休止の東方神起・ジェジュンが『anan』表紙に登場 恋愛観を赤裸々に語る”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 8 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  8. ^ “歌手浜崎あゆみ、「25作連続1位」の新記録” (bằng tiếng Nhật). Innolife. ngày 5 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  9. ^ “JYJ Announces "The Beginning". Music Releases. ngày 30 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  10. ^ “TOUR SCHEDULE”. JYJ Official Website. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  11. ^ a b 유, 순호 (ngày 7 tháng 10 năm 2010). “JYJ 파워! 하루 70억 수입”. MetroSeoul (bằng tiếng Triều Tiên). Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ “동방신기 3인, 월드와이드 쇼케이스 나서”. Hankooki (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 4 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  13. ^ “JYJ 첫 앨범 '동방신기' 넘나”. Hankooki (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 30 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^ a b “アーティスト: JUNSU/JEJUNG/YUCHUN”. Oricon. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
  15. ^ a b c “オリコンランキング情報サービス「you大樹」”. Oricon. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010. (subscription only)
  16. ^ “YESASIA: JYJ (JEJUNG / YUCHUN / JUNSU)”. Truy cập 7 tháng 3 năm 2015.
  17. ^ “7th Channel V Thailand Music Video Awards” (bằng tiếng Anh và Thái). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2012.
  18. ^ “2011 KBS Best Icon Awards: The Best Idol Star” (bằng tiếng Triều Tiên).Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  19. ^ a b c d “So-Loved Awards 2011” (bằng tiếng Anh và Hà Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2011.
  20. ^ [jyjfamily.vn “JYJFamilyVN”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp).

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]