Location via proxy:   [ UP ]  
[Report a bug]   [Manage cookies]                
Bước tới nội dung

Cá voi xám

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cá voi xám[1]
Thời điểm hóa thạch: thượng Pleistocene - gần đây
Một con cá voi xám spy-hopping
Kích cỡ so với người trung bình
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Cetacea
Phân bộ (subordo)Mysticeti
Họ (familia)Eschrichtiidae
Chi (genus)Eschrichtius
Loài (species)E. robustus
Danh pháp hai phần
Eschrichtius robustus
Lilljeborg, 1861
Bản đồ phạm vi của cá voi xám
Bản đồ phạm vi của cá voi xám

Cá voi xám (danh pháp hai phần: Eschrichtius robustus), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài khoảng 16,5 mét, trọng lượng 50 tấn, và tuổi thọ 50-70 năm[3]. Tên gọi phổ biến của cá voi đến từ các đốm xám và đường văn màu trắng trên da đen của nó[4]. Cá voi xám từng được gọi là cá quỷ vì hành vi phản kháng của chúng khi bị săn bắn[5]. Cá voi xám là loài còn sống duy nhất trong chi Eschrichtius, chi này lại là chi sống sót duy nhất trong họ Eschrichtiidae. Loài động vật có vú này có nguồn gốc từ cá voi ăn bằng hàm răng lọc đồ ăn đã phát triển ở đầu thế Oligocen, hơn 30 triệu năm trước.

Những con cá voi xám phân bố trong vùng Đông Bắc Thái Bình Dương (Bắc Mỹ) dân số và một cực kỳ nguy cấp dân Tây Bắc Thái Bình Dương (châu Á). Số lượng ở Bắc Đại Tây Dương đã bị tuyệt diệt (có thể do nạn săn bắt cá voi) trên bờ biển châu Âu trước năm 500 và bờ biển Mỹ khoảng cuối những năm 17 đến thế kỷ đầu tiên 18[6]. Tuy nhiên, ngày 08 tháng 5 năm 2010, việc xuất hiện một con cá voi xám đã được xác nhận ngoài khơi bờ biển Israel ở biển Địa Trung Hải[7], dẫn một số nhà khoa học nghĩ rằng họ có thể phục hồi số lượng ở khu vực sinh sản cũ mà không được sử dụng trong nhiều thế kỷ[7].

Phân loại học

[sửa | sửa mã nguồn]
Skeleton

Theo cách hiểu thông thường, cá voi xám được xem là loài duy nhất còn sinh tồn trong chi và họ của nó.[8] Phân tích DNA gần đây chỉ ra các loài trong họ Balaenopteridae, như cá voi lưng gù (Megaptera novaeangliaecá voi vây (Balaenoptera physalus), có quan hệ gần gũi hơn với cá voi xám hơn là các loài khác trong họ Balaenopteridae như cá voi Minke.[9][10] John Edward Gray đã xếp nó vào chi Eschrichtius năm 1865, và đặt tên chi này theo tên của nhà động vật học Daniel Eschricht.[11] Tên gọi phổ biến của nó xuất phát từ màu xám của nó. Các mẫu bán hóa thạch của loài cá voi xám đã tuyệt chủng được Gray thu thập từ các bờ biển Đại Tây Dương thuộc AnhThụy Điển, theo đó ông Gray đã miêu tả khoa học loài này đầu tiên mà sau này chỉ tìm thấy được loài còn sinh tồn sống trong các vùng nước thuộc Thái Bình Dương.[12] Các loài đang sinh sống trong Thái Bình Dương đã được Cope miêu tả và đặt tên là Rhachianectes glaucus năm 1869.[13] So sánh khung xương cho thấy các loài ở Thái Bình Dương giống hệt các hóa thạch ở Đại Tây Dương trong thập niên 1930, và cách đặt tên của Gray sau đó đã được công nhận.[14][15] Mặc dù sự giống nhau giữa các cá thể trong Thái Bình Dương và Đại Tây Dương không thể được chứng minh bằng các dữ liệu giải phẫu, khung xương của nó có nét đặc trưng và dễ dàng phân biệt với tất cả các cá thể cá voi còn sống khác.[16]

Có nhiều tên gọi đã được sử dụng để chỉ cá voi xám, bao gồm cá voi sa mạc,[17] cá voi lưng xám, devil fish, mussel digger và rip sack.[18] Tên khoa học Eschrichtius gibbosus đôi khi cũng có một số tài liệu sử dụng; tên gọi này đã được chấp nhận theo miêu tả của Erxleben năm 1777.[19]

Số cá thể

[sửa | sửa mã nguồn]

Có hai nhóm phân bố trên Thái Bình Dương: một nhóm với số lượng ít hơn 130 con (theo đánh giá năm 2008[20]) tuyến đường di cư của chúng giữa biển Okhotsk và Hàn Quốc, và một nhóm lớn hơn với số cá thể khoảng 20.000 đến 22.000 con sống ở phía đông Thái Bình Dương và di chuyển giữa các vùng nước ngoài khơi AlaskaBaja California Sur. Nhóm phía tây được IUCN xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp. Không có cá thể cái mới sinh được ghi nhận năm 2010, nên có ít nhất 26 con cái có khả năng sinh theo quan sát từ năm 1995.[20] Ngay cả một số rất nhỏ các con cái chết hàng năm sẽ làm số lượng cá thể của phân nhóm này suy giảm.[21]

Năm 2007, S. Elizabeth Alter sử dụng cá tiếp cận gen để ước tính sự phong phú của thời kỳ trước khi cá voi bị đánh bắt dựa trên các mẫu lấy từ 42 con cá voi xám ở California, và công bố sự biến đổi DNA ở hợp phần di truyền loci với số cá thể 76.000–118.000 con, lớn hơn từ 3 đến 5 lần so với số cá thể trung bình bằng phương pháp thống kê năm 2007.[22] NOAA đã tiến hành nghiên cứu số cá thể mới trong giai đoạn 2010–2011; dữ liệu này đã được công bố năm 2012.[23] Hệ sinh thái biển có thể đã thay đổi kể từ thời kỳ trước khi đánh bắt cá voi, làm cho sự hồi phục của số lượng cá voi trước thời gian bị đánh bắt là không khả thi; nhiều nhà sinh thái biển đã cho rằng số cá thể cá voi xám ở đông Thái Bình Dương xấp xỉ khả năng tiếp nhận số cá thể trong môi trường đó.[24]

Cá voi xám đã tuyệt chủng ở bắc Đại Tây Dương trong thế kỷ 18.[25] Phân tích đồng vị phóng xạ cacbon của các hóa thạch được lấy ở các bờ biển châu Âu (Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh) đã xác nhận điều đó, có thể nguyên nhân do đánh bắt cá voi.[16] Xác định tuổi của các mẫu khác ở thời kỳ La Mã cũng đã đực tìm thấy ở Địa Trung Hải trong khi đào bến cảng cổ Lattara gần Montpellier năm 1997, đã dấy lên câu hỏi liệu các cá thể cá voi xám Đại Tây Dương đã di chuyển lên và xuống bờ biển châu Âu để vào sinh đẻ trong Địa Trung Hải hay không.[26] Tương tự, việc định tuổi cacbon của các mẫu bán hóa thạch bờ biển đông châu Mỹ đã xác nhận cá voi xám đã sinh sống ở đây ít nhất từ thế kỷ 17. Số cá thể này phân bố ít nhất là từ Southampton, New York, đến Jupiter Island, Florida, từ 1675.[15] Trong quyển lịch sử đảo Nantucket từ 1835, Obed Macy đã viết rằng trong các khu vực sinh sống của cá heo 1672 được gọi là "scragg", chúng đã vào cảng và bị giết bởi những người định cư.[27] A. B. Van Deinse chỉ ra rằng "scrag whale", được P. Dudley miêu tả năm 1725 là một trong những loài bị săn bắt ở những người săn cá voi New England trước đây, hầu hết là cá voi xám.[28][29]

Giữa năm 1980, 3 cá thể cá voi xám được nhìn thấy ở phía đông biển Beaufort, nên người ta cho rằng sự phân bố của chúng cách phía đông dãi phân bố hiện hữu lúc đó là 585 kilômét (364 mi).[30] Tháng 5 năm 2010, một con cá voi xám được nhìn thấy ngoài khơi Địa Trung Hải thuộc Israel.[31] Người ta cho rằng con cá voi này có nguồn gốc từ Thái Bình Dương vào Đại Tây Dương qua hành lang Tây Bắc, vì các tuyến hàng hải thay thế qua kênh đào Panama hoặc Mũi Hảo Vọng không tiếp giáp với lãnh thổ sinh sống của cá voi. Khi băng tan từ từ và sự thu hẹp biển băng Bắc Cực đạt đến đỉnh điểm năm 2007 làm cho tuyến đường Tây-Bắc trở nên thông thoáng hơn[32] Cùng con cá đó đã được thấy lần nữa ngày 30 tháng 5 năm 2010 ngoài khơi bờ biển Barcelona.[33]

Tháng 1 năm 2011, một con cá voi xám được đánh dấu thuộc nhóm phía tây đã được theo dõi là đã di chuyển về phía đông đến dải phân bố của nhóm phía đông ngoài khơi bờ biển British Columbia.[34]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Mead, J.G.; Brownell, R. L. Jr. (2005). “Order Cetacea”. Trong Wilson, D.E.; Reeder, D.M (biên tập). Mammal Species of the World: A Taxonomic and Geographic Reference (ấn bản thứ 3). Johns Hopkins University Press. tr. 723–743. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  2. ^ Reilly SB, Bannister JL, Best PB, Brown M, Brownell Jr. RL, Butterworth DS, Clapham PJ, Cooke J, Donovan GP, Urbán J & Zerbini AN (2008). Eschrichtius robustus. 2008 Sách đỏ IUCN. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế 2008. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2008.
  3. ^ Recovery Strategy for the Grey Whale (Eschrichtius robustus), Atlantic Population, in Canada
  4. ^ “American Cetacean Society Fact Sheet on Gray Whale”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2011.
  5. ^ WWF Gray Whale Information Page
  6. ^ William F. Perrin, Bernd G. Würsig, J. G. M. Thewissen (2009). [Encyclopedia of marine mammals By William F. Perrin, Bernd G. Würsig, J. G. M. Thewissen Encyclopedia of marine mammals] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Academic Press. tr. 404. ISBN 9780123735539. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ a b Thomas, Pete (10 tháng 5 năm 2010). 'Gray whale off Israel called 'most amazing sighting in history of whales. GrindTV.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2010. Truy cập 12 tháng 5 năm 2010.
  8. ^ The Paleobiology Database Eschrichtiidae entry Lưu trữ 2012-10-21 tại Wayback Machine accessed on ngày 26 tháng 12 năm 2010
  9. ^ Arnason, U., Gullberg A. & Widegren, B. (1993). “Cetacean mitochondrial DNA control region: sequences of all extant baleen whales and two sperm whale species”. Molecular Biology and Evolution. 10 (5): 960–970. PMID 8412655.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Sasaki, T. (2005). “Mitochondrial Phylogenetics and Evolution of Mysticete Whales”. Systematic Biology. 54 (1): 77–90. doi:10.1080/10635150590905939. PMID 15805012.
  11. ^ Gray (1864). “Eschrichtius”. Ann. Mag. Nat. Hist. 3 (14): 350.
  12. ^ Pyenson, Nicholas D.; Lindberg, David R. (2011). Goswami, Anjali (biên tập). “What Happened to Gray Whales during the Pleistocene? The Ecological Impact of Sea-Level Change on Benthic Feeding Areas in the North Pacific Ocean”. PLoS ONE. 6 (7): e21295. doi:10.1371/journal.pone.0021295. PMC 3130736. PMID 21754984.
  13. ^ Cope (1869). “Rhachianectes”. Proc. Acad. Nat. Sci. Philadelphia. 21: 15.
  14. ^ Cederlund, BA (1938). “A subfossil gray whale discovered in Sweden in 1859”. Zoologiska Bidrag Fran Uppsala. 18: 269–286.
  15. ^ a b Mead JG, Mitchell ED (1984). “Atlantic gray whales”. Trong Jones ML, Swartz SL, Leatherwood S (biên tập). The Gray Whale. London: Academic Press. tr. 33–53.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  16. ^ a b Bryant, PJ (1995). “Dating Remains of Gray Whales from the Eastern North Atlantic”. Journal of Mammalogy. 76 (3): 857–861. doi:10.2307/1382754. JSTOR 1382754.
  17. ^ Waser, Katherine (1998). “Ecotourism and the desert whale: An interview with Dr. Emily Young”. Arid Lands Newsletter.
  18. ^ Eschrichtius robustus (TSN 180521) tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).
  19. ^ Erxleben (1777). “Balaena gibbosa”. Systema regni animalis: 610.
  20. ^ a b “Report of the Scientific Committee, Tromsø, Norway, 30 May to ngày 11 tháng 6 năm 2011 Annex F: Sub-Committee on Bowhead, Right and Gray Whale” (PDF). IWC Office.
  21. ^ Cooke, J.G.; Taylor, B.L.; Reeves, R.; Brownell Jr.; R.L. (2018). Eschrichtius robustus western subpopulation. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T8099A50345475. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T8099A50345475.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  22. ^ Alter, SE; Rynes, E.; Palumbi, S. R. (2007). “DNA evidence for historic population size and past ecosystem impacts of gray whales”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 104 (38): 15162–15167. doi:10.1073/pnas.0706056104.
  23. ^ “California Group Seeks Protections For Gray Whale”. Santa Cruz Sentinel. tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  24. ^ “Gray Whale Population Studies”. NOAA, National Marine Fisheries Service, Southwest Fisheries Science Center, Protected Resource Division. 2010. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  25. ^ Rice DW (1998). Marine Mammals of the World. Systematics and Distribution. Special Publication Number 4. Lawrence, Kansas: The Society for Marine Mamalogy.
  26. ^ Macé M. (2003). “Did the Gray Whale calve in the Mediterranean?”. Lattara. 16: 153–164.
  27. ^ Macy O (1835). The History of Nantucket:being a compendious account of the first settlement of the island by the English:together with the rise and progress of the whale fishery, and other historical facts relative to said island and its inhabitants:in two parts. Boston: Hilliard, Gray & Co. ISBN 1-4374-0223-2.
  28. ^ Van Deinse, AB (1937). “Recent and older finds of the gray whale in the Atlantic”. Temminckia. 2: 161–188.
  29. ^ Dudley, P (1725). “An essay upon the natural history of whales”. Philosophical Transactions of the Royal Society of London. 33 (381–391): 256–259. doi:10.1098/rstl.1724.0053. JSTOR 103782.
  30. ^ Rugh, David J. and Fraker, Mark A. (tháng 6 năm 1981). “Gray Whale (Eschrichtius robustus) Sightings in Eastern Beaufort Sea” (PDF). Arctic. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  31. ^ צפריר רינת 08.05.2010 16:47 עודכן ב: 16:50. “לווייתן אפור נצפה בפעם הראשונה מול חופי ישראל – מדע וסביבה – הארץ”. Haaretz.co.il. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
  32. ^ “Satellites witness lowest Arctic ice coverage in history”. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2007.
  33. ^ Walker, Matt (ngày 30 tháng 5 năm 2010). “Mystery gray whale sighted again off Spain coast”. BBC News. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  34. ^ “Western Pacific Gray Whale, Sakhalin Island 2010”. Oregon State University, Marine Mammal Institute. tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]